Tiểu luận: Đảng lãnh đạo công tác đối ngoại thời kỳ đổi mới

PHẦN MỞ ĐẦU

Từ giữa những năm 80, tình hình thế giới có nhiều diễn biến mới: Xu thế vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong hình thái cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị – xã hội khác nhau ngày càng gia tăng; phát triển kinh tế trở thành mục tiêu hàng đầu đối với các quốc gia. Quan hệ quốc tế đã chuyển từ căng thẳng sang hoà dịu, từ đối đầu sang đối thoại, từ hai cực sang đa cực, làm nảy sinh xu hướng nhất thể hoá quốc tế, toàn cầu hoá, phô thuộc lẫn nhau. Tình hình nước ta gặp nhiều khó khăn, phức tạp: Khủng hoảng kinh tế – xã hội; sự bao vây cô lập của các thế lực thù địch, làm trầm trọng thêm khủng hoảng và làm suy giảm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, trải qua gần 20 năm thực hiện đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn: Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội kéo dài trầm trọng, từ đó nâng cao vị thế của dân téc, chuyển nước ta sang một chặng đường mới của thời kỳ quá độ: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Mét trong những nhân tố góp phần quyết định thành công của công cuộc đổi mới là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng trên lĩnh vực đối ngoại. Công tác đối ngoại đúng đắn đã cho phép Đảng – Nhà nước khai thác tốt các nhân tố quốc tế, kết hợp sức mạnh dân téc và sức mạnh thời đại một cách có hiệu quả. Công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước thời kỳ (1986 – 2001) đổi mới mang đậm bản sắc dân téc, truyền thống ngoại giao trong lịch sử và được nâng cao lên tầm cao mới. Việc nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng với công tác đối ngoại trong thời kỳ đổi mới (1986 – 2001) nhằm làm rõ những quyết sách đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong 15 năm đổi mới.
Thông qua việc nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng đối với công tác đối ngoại trong thời kỳ đổi mới (1986 – 2001), tác giả mong muốn được trang bị cho bản thân sâu sắc hơn kiến thức chuyên môn, để phục vụ tốt hơn cho công tác, góp phần xây dựng và bảo vệ Đảng. Với những lý do nêu trên, nên tôi chọn đề tài nghiên cứu: Đảng lãnh đạo công tác đối ngoại trong thời kỳ đổi mới (1986 – 2001) làm bài tiểu luận học phần: Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay.

Tiểu luận: Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa giai đoạn 1975 – 1986

MỞ ĐẦU
Thực tiễn hơn 80 năm qua đã khẳng định rằng, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, mà trước hết là từ tính đúng đắn, kịp thời phản ánh những xu thế vận động của thực tiễn trong nước và thế giới của đường lối cách mạng, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nếu như thời điểm năm 1930, khi mà lịch sử dân tộc ta đang trong mò mẫm, tìm con đường giải phóng và tiến lên của dân tộc, thì Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, công bố Cương lĩnh chính trị, đường lối cứu nước theo con đường cách mạng vô sản. Tính đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã dẫn dắt nhân dân ta giành được những thắng lợi có ý nghĩa vĩ đại trong thế kỷ XX. Đến cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ trước, đất nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng. Các nước xã hội chủ nghĩa cũng trong hoàn cảnh tương tự, đang bắt đầu nhận thức lại chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của mỗi nước, nhận thức lại những vấn đề lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin trên cơ sở khoa học và thực tiễn cuộc sống; từ đó đề ra đường lối tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới để thúc đẩy chủ nghĩa xã hội tiếp tục tiến lên. Trong khi đó, các nước tư bản chủ nghĩa cũng có những chuyển biến mạnh, nhất là việc áp dụng những thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba vào trong hoạt động sản xuất và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Thực tiễn đặt ra yêu cầu bức bách là cần phải đổi mới, đổi mới một cách toàn diện. “Thế giới ngày nay đang nhanh chóng đổi mới. Chủ nghĩa xã hội phải phấn đấu để chứng minh tính ưu việt của mình về mọi mặt so với chủ nghĩa tư bản trên thực tế. Đối với cộng đồng xã hội chủ nghĩa, đổi mới là con đường vươn lên đáp ứng đòi hỏi của thời đại, đáp ứng những nhu cầu chính đáng và ngày càng cao của nhân dân. Đối với nước ta, đổi mới cũng là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có tầm quan trọng sống còn. Yêu cầu đó vừa là đòi hỏi bên trong của nền kinh tế nước ta, vừa phù hợp với xu thế mới của thời đại” .
Đáp ứng yêu cầu đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã diễn ra và quyết định thông qua đường lối xây dựng đất nước với tinh thần, tư duy đổi mới toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Đường lối đổi mới đó, không phải là sản phẩm chủ quan của Đảng mà nó được kết tinh từ nhiều yếu tố khác nhau cùng tác động (trên cả phương diện trong nước và quốc tế, từ lý luận cho đến thực tiễn khó khăn của đất nước, từ truyền thống tư duy của dân tộc cho đến yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh mới, v.v…).
Công cuộc đổi mới của Việt Nam đã tiến hành được hơn 2 thập kỷ và những thành tựu đạt được đã làm cho diện mạo của đất nước ta chuyển biến hàng ngày. Nếu như trước đây, những năm đầu khi bắt đầu đổi mới, đất nước ta vẫn còn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội, thì nay đã thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang được đẩy mạnh. Nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế khu vực và toàn cầu. Đặc biệt từ cuối năm 2007 cho đến đầu năm 2010, với nỗ lực của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta, Việt Nam đã cơ bản vượt qua những tác động xấu từ cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính diễn ra ở nhiều nước trên thế giới. Năm 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt được ở mức gần 6,8%. Trên nhiều lĩnh vực khác như chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại, an ninh quốc phòng, v.v… cũng có những thay đổi mạnh mẽ.
Những thành tựu công cuộc xây dựng đất nước trong thời gian qua bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng cơ bản và xuyên suốt là trên nền tảng của đường lối đổi mới mà Đảng ta dày công hoạch định từ đầu thời kỳ đổi mới và tiếp tục được bổ sung, phát triển từ đó cho đến nay.
Xuất phát từ vấn đề đó, tôi lựa chọn vấn đề: Quá trình tìm tòi khảo nghiệm đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam ta làm tiểu luận học phần: Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước 1975 – 1986.

Tiểu luận: Công cuộc đổi mới ở Việt Nam, đặc trưng và triển vọng

CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM: ĐẶC TRƯNG VÀ TRIỂN VỌNG

Trong bài viết này, tác giả đã chỉ ra và phân tích những đặc trưng chủ yếu và triển vọng của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Theo tác giả, những đặc trưng cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là: Đổi mới được tiến hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm, được tiến hành một cách tuần tự, từng bước; đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới hệ thống chính trị; đổi mới để phát triển trong ổn định; đổi mới gắn liền với mở cửa với thế giới bên ngoài. Triển vọng của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là tốt đẹp, bởi nó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xuất phát từ thực tiễn xã hội Việt Nam và luôn gắn kết thực tiễn với khái quát lý luận.
Việt Nam bước vào sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước và tiến hành như một cuộc cách mạng thực sự chỉ bắt đầu từ năm 1986. Nhưng trước đó, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế mang tính chất đổi mới. Những đổi mới này vừa đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, vừa là những bước tìm tòi, thử nghiệm con đường phát triển của Việt Nam. Mặc dù, ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960), Đảng Cộng sản Việt Nam đã chú trọng đến vấn đề phát triển kinh tế và xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Nhưng lúc đó và cả sau này, khi cả nước đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội thì vấn đề phát triển kinh tế của Việt Nam có nội dung cốt lõi là thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và trên cơ sở đó, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Chủ trương này là phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam lúc đó nhưng càng về sau, nhất là khi cả nước đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nó càng bộc lộ sự yếu kém trong nhận thức và vận dụng một cách sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào từng giai đoạn phát triển cụ thể của cách mạng Việt Nam. Đó là vấn đề nông nghiệp, nông dân khi đất nước chuyển giai đoạn nhưng trên thực tế lại không được coi trọng, không nhìn thấy tầm chiến lược của nó trong sự phát triển nền kinh tế – xã hội ở một nước sản xuất nông nghiệp. Sự kéo dài chủ trương đó, hơn nữa lại có sai lầm trong thực hiện đã làm cho nền kinh tế Việt Nam thực sự rơi vào một cuộc khủng hoảng.(*)Vì vậy, công cuộc đổi mới của Việt Nam có xuất phát điểm trước hết từ chính yêu cầu phát triển nội tại của đất nước. Nó được bắt nguồn từ nhu cầu thực tiễn phát triển đất nước, từ tâm tư, nguyện vọng của nhân dân lao động, từ kinh nghiệm sáng tạo của một số cơ sở, địa phương. Trên cơ sở nhận thức lại chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ năm 1986.

Tiểu luận: Chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đạm đà bản sắc dân tộc

MỞ ĐẦU
Văn hoá là một lĩnh vực xã hội rộng lớn, văn hoá gắn liền với con người, do con người sáng tạo ra và phục vụ cho cuộc sống con người. Vì vậy, có thể coi lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển của văn hoá. Văn hoá đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển hưng thịnh, suy vong của một quốc gia, một dân tộc hay một thời đại.
Đối với Việt Nam, trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn quan tâm đến xây dựng, phát triển, phát huy vai trò của văn hoá để giành độc lập tự do và bảo vệ nền độc lập tự do của đất nước, ngày nay là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hai văn kiện nổi bật là Đề cương về văn hoá Việt Nam (1943) và Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII của Đảng Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1998), đặc biệt văn kiện thứ hai này đã và sẽ đáp ứng yêu cầu phát triển của nước ta trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập với khu vực và thế giới.
Thực tiễn chỉ ra rằng, văn hoá đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong trường kỳ lịch sử và trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ở thời hiện đại.
Để văn hoá phục vụ tốt hơn cho mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, chúng ta cần phải hiểu sâu về văn hoá. Trong tiểu luận này, em đi sâu nghiên cứu nội dung: Chủ trương, đường lối của Đảng ta về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Tiểu luận: Nội dung phép biện chứng trong tác phẩm Bút ký triết học

MỞ ĐẦU

1. Lý do và tính cấp thiết của đề tài
Bút ký triết học là một trong các tác phẩm kinh điển triết học Mác – Lênin, tuy không phải là một tác phẩm hoàn chỉnh, song nó có ý nghĩa lý luận và chính trị hết sức to lớn và là nền tảng lý luận của một giai đoạn phát triển tư tưởng triết học mác-xít được mệnh danh là giai đoạn Lênin. Nội dung tập trung của Bút ký triết học là phép biện chứng duy vật, những quy luật và những phạm trù cơ bản của nó, lịch sử hình thành và ý nghĩa của chúng đối với các khoa học xã hội và khoa học tự nhiên v.v.. Phép biện chứng duy vật mà Lênin phát triển trong Bút ký triết học có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng để nghiên cứu các quy luật xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, phục vụ cuộc đấu tranh chống triết học tư sản, chống chủ nghĩa giáo điều.
Trong tác phẩm Bút ký triết học sự cần thiết xây dựng phép biện chứng duy vật như phương pháp khoa học của sự nhận thức và cải tạo thực tiễn xuất phát từ những đòi hỏi đặt ra trước các nhà lý luận mác-xít vào nhưng năm Chiến tranh của thế giới thứ nhất.
Chúng ta ta biết rằng, chủ nghĩa Mác – Lênin là một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng, là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh để nhận thức và cải tạo thế giới. Trên lĩnh vực lý luận, tư tưởng và thực tiễn xây dựng đất nước đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu và nhận thức những giá trị đích thực của chủ nghĩa Mác – Lênin. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này tôi đã nghiên cứu đề tài: ” Nội dung cơ bản của phép biện chứng trong tác phẩm Bút ký Triết học của V.I.Lênin”.

2. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu những quan điểm của V.I.Lênin về phép biện chứng trong tác phẩm “Bút ký Triết học” của ông.
Nghiên cứu nội dung nổi bật nhất phép biện chứng với tính cách là một khoa học triết học và vấn đề thống nhất giữa phép biện chứng, lý luận nhận thức và logic học trong tác phẩm.
3.Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Có thể nói, nội dung này được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trên thực tế đã có rất nhiều công trình tiêu biểu đã công bố có liên quan đến đề tài tiểu luận như:
“Lịch sử phép biện chứng từ khi xuất hiện chủ nghĩa Mác đến giai đoạn Lênin”; Viện Hàn lâm khoa học xã hội Liên Xô; Nxb CTQG, Hà Nội, 1998.
“Giới thiệu tác phẩm “Bút ký triết học” của V.I. Lênin”, Nxb CTQG; Hà Nội, 2009.
“Triết học – phần 2: Giới thiệu các tác phẩm kinh điển”; Nguyễn Hùng Hậu; Nxb Lý luận chính trị, Hà nội, 2011
“Vấn đề Triết học trong tác phẩm của C.Mác – Ph. Ăngghen, V.I. Lênin “; Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.

Các công trình trên là sự gợi ý và cung cấp một số cơ sở luận chứng, luận cứ để tác giả hoàn thành việc nghiên cứu đề tài
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
– Mục tiêu nghiên cứu của tiểu luận là: Làm rõ nội dung cơ bản của phép biện chứng trong tác phẩm Bút ký Triết học của V.I.Lênin.
– Để thực hiện mục tiêu này tác giả xác định cần thực hiện một số nhiệm vụ sau đây:
+ Nghiên cứu những quan điểm V.I.Lênin về nội dung cơ bản của phép biện chứng trong tác phẩm Bút ký Triết học.

+ Phân tích, tổng kết đưa ra các luận điểm đã được ông sáng tạo.

+ Ý ngĩa của tác phẩm
5. Phương pháp nghiên cứu
– Phương pháp luận: Để nghiên cứu được đề tài này tác giả đã tuân thủ các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử để đánh giá xem xét vấn đề. Đặc biệt tác giả sử dụng những nguyên lý, phạm trù cơ bản như: Bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết quả, quy luật lượng – chất … để tiến hành nghiên cứu
– Phương pháp nghiên cứu chung: Phương pháp nghiên cứu chung của đề tài này là: Logic – Lịch sử, phân tích – tổng hợp, đồng thời coi trọng điều tra khảo sát thực tiễn.
– Phương pháp cụ thể: Sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, thu thập tài liệu, phân tích sắp xếp, tóm tắt tài liệu… ngoài ra tác giả còn tiến hành thảo luận với các thầy cô giáo để bổ sung nhiều tri thức quý báu phục vụ cho quá trình nghiên cứu của mình.
6. Kết cấu nội dung của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu nội dung của đề tài bao gồm 3 chương, 8 tiết.