Tiểu luận: Cơ sở thực tế của hệ tư tưởng trong tác phẩm Hệ tư tưởng đức

A- MỞ ĐẦU

Tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” là một trong những tác phẩm lớn của Mac K. (K. Marx) và Enghen F. (F. Engels), được viết trong thời kì hình thành lí luận về chủ nghĩa cộng sản khoa học, cấu thành một giai đoạn quan trọng trong sự hình thành những cơ sở triết học và lí luận của chủ nghĩa Mac. Trong “HTTĐ”, Mac và Enghen phê phán Foiơbăc L. (L. Feuerbach) và các nhà Hêghen trẻ, từ đó, lần đầu tiên trình bày một cách có hệ thống chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong tác phẩm “HTTĐ”, khi phê phán quan điểm duy tâm của phái Hêghen trẻ và những hạn chế của chủ nghĩa duy vật của Foiơbăc, Mac và Enghen lần đầu tiên vạch ra nội dung cơ bản của quy luật vận động biện chứng của sức sản xuất và quan hệ sản xuất, được gọi là các hình thức giao tiếp, lấy đó làm căn cứ để vạch ra sự kế tục và thay thế nhau của các chế độ sở hữu bộ lạc nguyên thuỷ, chế độ sở hữu nô lệ, chế độ sở hữu phong kiến, chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa, coi sự phát triển xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Trong tác phẩm này, Mac và Enghen cũng nghiên cứu về mối quan hệ giữa cơ cấu chính trị và nền sản xuất, nguyên lí về mối quan hệ giữa cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng, mối quan hệ giữa nhà nước với chế độ sở hữu, vạch ra bản chất giai cấp của nhà nước. Lần đầu tiên nghiên cứu về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, Mac và Enghen khẳng định rằng “không phải ý thức quyết định đời sống, mà chính đời sống quyết định ý thức”, ý thức chính trị – xã hội là do cơ sở kinh tế quyết định, cho nên “giai cấp nào chi phối tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả tư liệu sản xuất tinh thần”, và “trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là tư tưởng thống trị”.
Để hiểu rõ tác phẩm, trước hết ta tìm hiểu sơ qua về những nội dung sau:
Thứ nhất, hoàn cảnh ra đời: C.Mác và ph.Ăngghen không phải là những người đầu tiên đưa ra những quan điểm tư tưởng phê phán chế độ TBCN, đòi hỏi xóa bỏ chế độ TBCN và thay thế bằng một chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn. Những quan điểm tư tưởng này đã được các nhà XHCN không tưởng nêu lên ngay từ khi CNTB mới ra đời nhưng đã bộc lộ những mâu thuẫn sâu sắc, những khuyết tật trầm trọng. Tuy nhiên, những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đã không chỉ ra được đúng đắn những lực lượng xã hội và những giải pháp thực hiện cuộc cải tạo chuyển xã hội từ CNTB sang CNXH.
Các nhà kinh tế học trước Mác và đồng thời với Mác, trong các tác phẩm lý luận của mình viết về CNTB đã bộc lộ hai khuynh hướng:
+ Khuynh hướng thực sự muốn tìm ra những chân lý khoa học, những quy luật khách quan của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, từ đó tìm ra những giải pháp khắc phục những hạn chế, những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản với điều kiện vẫn bảo vệ được sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản (đại diện là Xmit, Ri-các-đô.v.v..).
+ Khuynh hướng muốn che đậy những hạn chế, những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, tô hồng CNTB, bất chấp những quy luật khách quan. (Giôn- Xtiu- át Min).
Cũng có những nhà lý luận của cái gọi là CNXH phong kiến, trong khi phê phán CNTB, lại kêu gọi quay trở về quá khứ, đưa xã hội trở về giai đoạn tiền tư bản, trở về chế độ phong kiến, “lý tưởng hóa những trật tự xã hội cổ xưa”.
Có thể nói tât cả những hạn chế về mặt lý luận của những quan điểm đã nêu ở trên đều xuât phát từ một nguồn gốc chung, đó là tư duy triết học, thế giới quan và phương pháp luận vẫn còn bị hạn chế. Nền triết học thế giới cho đến lúc này vẫn chưa vượt khỏi giới hạn của Triết học cổ điển Đức: duy vật nhưng siêu hình và chưa triệt để (phoi–ơ–bắc, Can tơ..); biện chứng nhưng duy tâm (Hêghen).
Mác nhận thấy rằng cần phải phê phán một cách triệt để những quan điểm sai lầm nói trên, cần phải xây dựng một học thuyết khoa học và cách mạng, dựa vào đó có thể có những giải pháp đúng đắn xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng CNCS. Trước hết, cần phải có một tác phẩm triết học có tính luận chiến phê phán những học thuyết triết học sai lầm, cơ sở phương pháp luận thế giới quan của những quan điểm sai lầm nói trên.
Thời kỳ này, trào lưu tư tưởng phản động mang tên “CNXH chân chính” do Ma- xơ Siếc-nơ, Mô-dét Hét-xơ, Các Grun đứng đầu đã gây trở ngại nghiêm trọng cho sự phát triển của phong trào công nhân. Những nhà “CNXH chân chính” đã công khai chống lại CNCSKH, kêu gọi mọi người tôn thờ “CNXH có tính người”, mưu toan dung khẩu hiệu “nhân tính hóa” chủ nghĩa xã hội để phá hoại cơ sở CNXH. “CNXH chân chính” không những có ảnh hưởng lớn ở Đức, mà từ 1845, còn lan rộng ảnh hưởng sang Liên đoàn những người chính nghĩa ở Pháp và Anh. Mác và Angghen coi đấu tranh chống lại những tác hại của “CNXH chân chính” đối với phong trào công nhân là một nhiệm vụ cấp bách.
Đồng thời, trong khi phê phán trào lưu “CNXH chân chính” Mác và Angghen đã trình bày một cách chính diện những quan điểm triết học của mình.
Những quan điểm triết học nhân bản của PhoiơBắc, mặc dù được xây dựng trên lập trường thế giới quan duy vật, nhưng vẫn bị hạn chế bởi tính trừu tượng của nó, tách rời khỏi thế giới hiện thực và chưa thoát khỏi CNDT khi lý giải nững hiện tượng và quá trình diễn ra trong xã hội loài người. trong khi đó, Phoiơbắc lại luôn luôn tự nhận mình là người cộng sản. cần phải phê phán triệt để những quan điểm của Phoiơbắc để phân rõ ranh giới giữa những quan điểm duy vật triệt để của Mác và Ăngghen với những quan điểm duy vật nửa chừng của Phoi ơ bắc.
Đây là tác phẩm viết chung của Mác và Angghen. tác phẩm được viết từ tháng 11- 1845, hoàn thành về cơ bản vào tháng 4-1845; sau đó còn được tiếp tục bổ sung khoảng một năm nữa.
Về cơ bản công việc viết tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, gồm 2 tập, hoàn thành vào tháng 4 năm 1846.
Trong một năm tiếp theo, công việc này con được bổ, hoàn thiện và kết thúc bằng bài báo của Angghen “Những người thuộc phái chủ nghĩa xã hội chân chính”, với tư cách là chương kết thúc của tập 2.
Sau khi hoàn thành, việc xuất bản tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” không thể thực hiện được vì, một mặt, với chế độ kiểm duyệt của nhà cầm quyền Đức lúc đó, không một nhà xuất bản nào dám đứng ra xuất bản một tác phẩm mang đầy nội dung cách mạng như vậy; mặt khác, bản thân các nhà xuất bản vốn là những đại biểu liên quan đến những khuynh hướng mà Mác phê phán. Mãi đến năm 1932 tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” mới được xuất bản lần đầu tiên ở Liên Xô.
Thứ hai, kết cấu của tác phẩm: Toàn bộ tác phẩm”HTTĐ” gồm hai tập: tập 1 viết vào tháng 9.1845, nhưng chưa hoàn thành, trong đó Mac và Enghen phê phán các quan điểm của Foiơbăc và các nhà Hêghen trẻ như Baoơ B. (B. Bauer) và Xtianơ M. (M. Stirner), trình bày những nguyên lí của chủ nghĩa duy vật lịch sử; tập 2 viết vào tháng 5.1846, trong đó, Mac và Enghen chủ yếu phê phán quan điểm triết học của các nhà “xã hội chủ nghĩa chân chính”. Khi Mac và Enghen còn sống, do nhiều cản trở, tác phẩm “HTTĐ” chưa được xuất bản, trừ một số chương. Do sự kiên trì của Mêrinh F. (F. Mehring), tác phẩm đó còn giữ lại được. Mãi đến 1932, “HTTĐ” mới được Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mac – Lênin của Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvich) Liên Xô xuất bản toàn văn bằng tiếng Đức và đến 1933 thì xuất bản bằng tiếng Nga.
Hiện nay, trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, ý nghĩa lớn lao này của Hệ tư tưởng Đức vẫn còn nguyên giá trị. Do đó em chọn vấn đề: Những nội dung cơ bản của mục B “Cở sở thực tế của hệ tư tưởng trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức”, làm chuyên đề tiểu luận của mình.

Tiểu luận: Hệ thống hành chính quốc gia thời Nguyễn (nửa đầu thế kỷ XIX)

MỞ ĐẦU
Dân tộc Việt Nam có một lịch sử lâu đời và một truyền thống tốt đẹp. Lịch sử lâu đời đó do chính những con người Việt Nam đã xây dựng và tạo nên những truyền thống và quá khứ hào hùng, vẻ vang của dân tộc. Từ trong sự nghiệp dụng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam đã tạo nên ý thức dân tộc, ý chí kiên trung, tinh thần yêu nước nồng nàn và lòng dũng cảm tuyệt vời để xây dựng nên những giá trị tinh thần cơ bản, góp phần quan trọng làm nên sự nghiệp cách mạng, bảo vệ Tổ quốc, chống các thế lực đế quốc xâm lược, thống nhất đất nước. Công lao to lớn đó của cha ông và tổ tiên chúng ta qua mấy ngàn năm lịch sử là rất đáng tự hào và để giáo dục cho các thế hệ mai sau, nhất là trong công cuộc xây dựng đất nước ở thời kỳ hiện tại.
Tuy nhiên nói đến đất nước, đến dân tộc, Tổ quốc tức là chúng ta muốn nói đến một khối cộng đồng người cùng sống trên một lãnh thổ, có tiếng nói chung, một nền kinh tế thống nhất và đương nhiên là dưới sự quản lý của một nhà nước thống nhất. Thực ra lịch sử lâu đời của một dân tộc cũng là lịch sử lâu đời của công cuộc xây dựng nhà nước, xây dựng hệ thống hành chính quản lý đất nước.
Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XV, cùng với việc xây dựng quốc gia phong kiến độc lập tự chủ, bộ máy nhà nước phong kiến theo xu hướng quân chủ quan liêu cũng được hoàn thiện dần và đến thời Lê Thánh Tông thì nó đã là nhà nước loại tiên tiến đương thời, với công cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông. Sang thời Minh Mạng, một lần nữa hệ thống hành chính quốc gia lại được cải cách.
Có thể nói ở triều đại nào, dù rằng dưới chế độ phong kiến, các giai cấp thống trị đều muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền hoàn hảo. Bởi vì ngoài nhiệm vụ thống trị và bóc lột, nhà nước đó còn phải được sự ủng hộ của nhân dân cả thời bình cũng như trong thời chiến để giữ vững biên cương, bảo vệ Tổ quốc và trong xây dựng đất nước.
Trong khuôn khổ một tiểu luận, không thể nghiên cứu toàn bộ hệ thống hành chính thời kỳ phong kiến ở Việt Nam, mà trong tiểu luận này, chúng em chỉ đi sâu nghiên cứu Hệ thống hành chính quốc gia thời Nguyễn (nửa đầu thế kỷ XIX).

Tiểu luận: Giải pháp phát triển kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

A. LỜI MỞ ĐẦU
Loài người đã trải qua hai nền văn minh và ngày nay, chúng ta đang đứng trước ngưỡng cửa của nền văn minh thứ ba -văn minh trí tuệ. Trong nền văn minh này, bộ phận quan trọng nhất là nền kinh tế tri thức – có thể nói là hết sức cơ bản của thời đại thông tin.Đặc biệt là trong thập niên 90 các thành tựu về công nghệ thông tin như: công nghệ Web, Internet, thực tế ảo, thương mại tin học…. Cùng với những thành tựu về công nghệ sinh học: công nghệ gen, nhân bản vô tính… đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc làm đảo lộn toàn bộ nền kinh tế thế giới và toàn bộ xã hội loài người đưa con người đi vào thời đại kinh tế tri thức.Rất nhiều nước trên thế giới đều có tăng trưởng kinh tế từ tri thức.Việt Nam vẫn đang là một trong những nước nghèo và kém phát triển so với khu vực và trên thế giới.Do đó phát triển kinh tế là chiến lược cấp bách hàng đầu.Hơn nữa chúng ta đang trên con đường tiến hành công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước nên không thể không đặt mình vào tri thức, phát triển tri thức để đưa nền kinh tế nước nhà bắt kịp và phát triển cùng thế giới.
Góp phần vào chiến lược phát triển kinh tế,tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoa,hiện đại hoá chúng ta cần phải nghiên cứu tri thức,tìm hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế tri thức,phù hợp với điều kiện,hoàn cảnh đất nước,phù hợp với khu vực,với thế giới và thời đại trong tổng thể các mối liên hệ,trong sự phát triển vận động không ngừng của nền kinh tế tri thức. Vì vậy em quyết định chọn đề tài “Giải pháp để phát triển kinh tế tri thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH ở đất nước Việt Nam hiện nay” này để làm đề tài nghiên cứu của mình.
Do hiểu biết còn hạn chế nên đề tài còn những thiếu sót nhất định. Em rất mong được sự nhận được ý kiến đóng góp của các thầy , cô để đề tài được hoàn thiện hơn.

Luận văn: Đảng lãnh đạo kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong thời kỳ đổi mới

MỤC LỤC

Nội dung Trang
Phần mở đầu 2
Phần nội dung 6
Chương I : Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế 6
I- Cơ sở lý luận của vấn đề kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế 6
II- Truyền thống kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế của Đảng trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ 13
Chương II : Đảng với sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong cách mạng Việt Nam thời kỳ đổi mới 21
A- Thực trạng đất nước trước năm 1986 21
B- Thời kỳ đổi mới 23
I- Phát huy sức mạnh dân tộc, mở rộng quan hệ đối ngoại trên mọi phương diện, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại trong thời kỳ mới 23
II- Tiếp tục sự nghiệp đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước trong sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế 37
III- Những thành tựu đạt được sau 15 năm đổi mới trong sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế 50
IV- Phương hướng của sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong thời kỳ đổi mới 53
V- Những kết luận về sự kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế trong thời kỳ đổi mới 56
Phần kết luận 58

PHẦN MỞ ĐẦU

I- TÍNH CẤP THIẾT CỬA ĐỀ TÀI
Khát vọng về cuộc sống hoà bình, ấm no, hạnh phúc là khát vọng của mỗi con người. Đối với mỗi quốc gia trên thế giới để có được một xã hội tiến bộ, một cuộc sống hài hoà, một nền kinh tế phát triển thì vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại phải được quan tâm đặt lên vị trí hàng đầu trong chính sách đối ngoại. Với chiều dài lịch sử hàng trăm năm nay thì sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại vẫn là một vấn đề mang tính chiến lược trong sự tồn tại và phát triển của tất cả các nước. Đối với các nước đang phát triển thì vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại là một vấn đề không mới, trong kháng chiến giành độc lập dân tộc nhờ sự kết hợp sức mạnh trong nước và quốc tế mà họ đã đánh đuổi được quân xâm lược. Vì vậy trong thời kì đổi mới đòi hỏi các nước đang phát triển phải tăng cường mở rộng hơn nữa sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế để tiến hành xây dựng đất nước.
Dân tộc việt nam cũng vậy để có được cuộc sống hoà bình, hạnh phúc thì ngay từ xa xưa cha ông ta đã biết vận dụng sức người sức của, vận dụng sức mạnh đoàn kết toàn dân và tranh thủ sự giúp đỡ của bên ngoài tạo thành sức mạnh để xây dựng đất nước
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đã thể hiện sâu sắc lòng qyết tâm giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Duới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản dân tộc ta đã biết đoàn kết một lòng, tự lực tự cường, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân. Không phân biệt già trẻ gái trai, tôn giáo đảng phái ….. kết hợp sức mạnh trong nước với quốc tế làm nên những chiến thắng rực rỡ từ cách mạng tháng 8 – 1945 đến chiến thắng 1954- chiến thắng Điện Biên Phủ làm chất động địa cầu đến mùa xuân 1975 ta đẫ giành được thắng lợi hoàn toàn, giang sơn về một mối, đất nước đi vào xây dựng cuộc sống mới hoà bình Êm no.
Nh­ vậy trong thời kì cách mạng dân tộc dân chủ sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đã được đảng ta vận dụng để chiến thắng kẻ thù mang lại độc lập tự do cho đất nước. Nhưng trong thời kỳ đổi mới với xu thế thời đại mới sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại được Đảng ta vận dụng như thế nào. Ngay từ đại hội đảng VI – 1986 Đảng đã chủ chương đẩy mạnh sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Đại hội đảng VII, VIII, IX tiếp tục kế thừa và phát triển đường lối đúng đắn đó.
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới với những thành tựu đã đạt được, chứng tỏ quan điểm của đảng về sự đẩy mạnh kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong thời kì đổi mới là đúng đắn. Tuy nhiên có nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần được làm sáng tỏ. Trong xu thế thời đại mới sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế còn là tất yếu khách quan đối với nền kinh tế nước ta hay không? Nhìn nhận sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế của nước ta trong những năm qua như thế nào? nó có vai trò nh­ thế nào trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Quan điểm, nội dung cụ thể, giải pháp bước đi của đảng ta trong sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế ra sao? đó là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng, thu hút sự chú ý quan tâm của nhiều người. Với lý do đó tôi chọn đề tài: “Đảng với sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong cách mạng Việt Nam thời kỳ đổi mới”
II- MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI.
Với mục đích làm rõ quan điểm, chủ trương của Đảng và sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong cách mạng Việt Nam thời kỳ đôỉ mới, nhiệm vụ đặt ra là phải xác định cơ sở lý luận và thực tiễn của dề tài. Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát chi tiết, cụ thể những chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng trong sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế của đất nước, đề tài sẽ làm rõ sự cần thiết phải có sự kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế, đó là vấn đề khách quan trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói riêng và trong sự nghiệp xây dựng đất nước nói chung. Trên cơ sở đó đề tài sẽ làm rõ được quan điểm, nội dung, bước đi của sự kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại thông qua các kỳ Đại hội, bắt đầu từ Đại hội VI cho đến nay.
III- TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.
Đây là một đề tài rất rộng lớn về nội dung, phạm vi góc độ. Từ trước đến nay đã có rất nhiều người nghiên cứu về vấn đề kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế của Đảng. Song chủ yếu là nghiên cứu trong phạm vi : Đảng với sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong suốt cả thời kỳ trước và sau đổi mới,chủ trương chính sách đối ngoại nói chung của Đảngvà Nhà nước trước và sau đổi mới …. Một số đề tài còn nghiên cứu từng góc độ của sự kết hợp dân tộc và quốc tế như : Sẵn sàng là bạn chủ động hội nhập, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới … Ngoài ra còn một số bài báo được đăng trên các tạp chí như : Nắm chắc thời cơ vượt qua thách thức, tạo những điều kiện để chủ động hội nhập ; phát huy sức mạnh dân tộc với sự ngiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước…..
Ở đề tài này với thời gian và trình độ có hạn tôi đi vào nghiên cứu : “Đảng với sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc Õ trong cách mạng Việt Nam trong thời kì đổi mới. ”
IV – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khoá luận khảo sát và nghiên cứu các quan điểm, đường lối chủ trương, phương hướng giải quyết của Đảng ta về sự kết hợp hài hoà nhân tố dân tộc và quốc tế trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Sự kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế vốn có từ khi cha ông ta bắt đầu dựng nước và giữ nước , trải qua bao thời kỳ lịch sử đất nước và duy trì cho đến ngày nay. Nhưng trong thời kỳ mới sự kết hợp đó phải được phát triển như thế nào? từ đó có thể sử dụng những phương pháp sau để nghiên cứu.
1. Phương pháp thống kê phân loại : Sử dụng phương pháp này nhằm thu nhập và xử lý những tư liệu cần thiết có liên quan đến sự kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế của Đảng ta trong cách mạngViệt Nam trong thời kỳ đổi mới.
2. Phương pháp phân tích và tổng hợp khái quát: Sử dụng phương pháp này trên cơ sở phân tích mổ xẻ từng vấn đề cụ thể sau đó tổng hợp lại thành từng luận điểm rồi nâng lên tầm khái quát chung.
Ngoài ra để nghiên cứu, đề tài này còn sử dụng một số phương pháp như: phương pháp lôgic và lịch sử, phương pháp diễn dịch và quy nạp nhằm tổng hợp nhấn mạnh một số vấn đề đã phân tích.
V- NHỮNG NÉT MỚI TRONG ĐỀ TÀI.
Nét mới ở đây là đề tài nghiên cứu khảo sát sâu hơn, kỹ hơn, toàn diện hơn những quan điểm, chủ chương của Đảng với sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong cách mạng Việt Nam kể từ năm 1986 trở lại đây
Hiện nay xu thế thế giới đang bước vào quá trình toàn cầu hoá, đòi hỏi mọi quốc gia trên thế giới phải chủ động hội nhập vì vậy nét mới ở đây là nghiên cứu sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế của Đảng ta trong sự phát triển của xu thế thế giới hiện đại.

VI- Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.
Về mặt lý luận đề tài nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ gắn bó giữa đoàn kết dân tộcvà đoàn kết quốc tế. Thực chất đề tài nghiên cứu sự áp dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước của Đảng trong sự nghiệp đổi mới. Vì vậy nghiên cứu đề tài sẽ giúp người viết bước đầu làm quen với việc đọc và tìm hiểu tài liệu, rèn luyện tư duy khoa học. Qua nghiên cứu đề tài sẽ thấy được sự đúng đắn khoa học của chủ nghĩa Mác -Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó người đọc sẽ giữ vững quan điểm và lập trường đúng đắn của học thuyết chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Về mặt thực tiễn: đề tài khảo sát trên thực tế Đảng ta với sự kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế trong cách mạng Việt Nam vào thời điểm từ năm 1986 đến nay. Chính vì vậy qua đề tài người đọc sẽ thấy được sự phát trriển của đất nước qua các số liệu đề tài thống kê, thấy được sự pháp triển hẳn về chất khi có sự kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế trong thời kỳ mới. Đặc biệt qua đề tài chúng ta sẽ thấy được quan điểm đúng đắn của Đảng ta về sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong thời kỳ đổi mới, từ đó sẽ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào chủ trương của Đảng có ý thức thực hiện nó. Đồng thời qua đề tài chúng ta sẽ tin tưởng vững chắc vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước, tin tưởng vào một xã hội tiến bộ trong tương lai.

Tiểu luận: Đảng lãnh đạo đoàn kết, tập hợp lực lượng của Mặt trận Việt Minh trong cách mạng tháng 8 năm 1945

MỞ ĐẦU

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi nhanh, gọn, ít đổ máu. Thắng lợi đó là một quá trình đấu tranh xây dựng lực lượng, trải qua các cuộc tập dượt đấu tranh, mà trực tiếp là phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945. Trong quá trình đó, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập trung xây dựng được một lực lượng chính trị hùng hậu; từng bước xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, là chỗ dựa vững chắc, giữ vai trò nòng cốt, xung kích, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Yếu tố cơ bản nhất, quyết định nhất cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những trang sử vẻ vang, chói lọi nhất của dân tộc. Cuộc cách mạng vĩ đại đó đã để lại cho dân tộc ta nhiều bài học, kinh nghiệm quý báu, trong đó có nội dung về phát huy sức mạnh của dân tộc, đoàn kết, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân trong Mặt trận Dân tộc thống nhất.
Để góp phần làm rõ hơn đường lối đoàn kết tập hợp lực lượng trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, em chọn nội dung “Đảng lãnh đạo đoàn kết, tập hợp lực lượng của Mặt trận Việt Minh trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945” làm tiểu luận hết môn học.