LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc kháng chiến của nhân dân cả nước ta bùng nổ khi những khả năng đàm phán hoà bình với thực dân Pháp không còn nữa, khi thực dân Pháp buộc nhân dân ta phải đứng dậy bảo vệ nền độc lập, tự do vừa mới giành được.
Sau khi đánh chiếm thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn (20-11-1946), gây ra hai vụ thảm sát tàn khốc đồng bào ta ở hai phố Yên Ninh, Hàng Bún (ngày 17 và 18-12-1946)…chính phủ Pháp ngày càng lao sâu vào con đường gạt bỏ mọi khả năng thương lượng để xâm lược Đông Dương bằng vũ lực. Chủ trương gây chiến ở Hà Nội một lần nữa nói lên mưu đồ chiến lược của thực dân Pháp quyết tâm cướp lại toàn bộ nước ta, sau khi đã chiếm đóng một phần phía Nam Tổ quốc ta. Ngày 18-12-1946, đại diện của chính phủ Pháp ở Hà Nội trao tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài Chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự và chướng ngại trên các đường phố, đòi để chúng làm nhiệm vụ giữ gìn trị an ở Hà Nội; đồng thời tuyên bố nếu các yêu cầu trên không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì chậm nhất vào sáng ngày 20/12/1946 quân Pháp sẽ chuyển sang hành động.
Như vậy, đến thời điểm này thực dân Pháp đã dồn nhân dân ta đến con đường cùng, nếu không cầm vũ khí đứng dậy bảo vệ chủ quyền đất nước thì chỉ còn cách cam chịu làm nô lệ. Dân tộc Việt Nam nay bị đặt trước hai đường: một là khoanh tay cúi đầu trở lại nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do độc lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ lâu Đảng ta đã nhận định rằng cuộc chiến tranh xâm lược cả nước do Pháp gây ra và cuộc kháng chiến toàn quốc của nhân dân ta chống Pháp xâm lược là không thể nào tránh khỏi. Xuất phát từ nhận định đó, Đảng đã có những chủ trương và biện pháp chuẩn bị kháng chiến. Qua 16 tháng giữ vững chính quyền nhân dân và chuẩn bị kháng chiến (9-1945 đến 12-1946), cách mạng nước ta đã lớn lên về mọi mặt. Chính quyền nhân dân đã được củng cố, bọn phản động tay sai đế quốc đủ các loại đã bị loại trừ ra khỏi bộ máy nhà nước. Lực lượng vũ trang nhân dân trưởng thành về cả số lượng và chất lượng. Đảng đã tổ chức được lực lượng lãnh đạo của mình ở các địa phương, trong các đoàn thể quần chúng, trong hệ thống chính quyền, trong các lực lượng vũ trang. Vì thế, nhân dân ta không những không bị bất ngờ trước cuộc tiến công xâm lược của thực dân Pháp, mà còn có thể chủ động phá âm mưu của chúng.
Để góp phần tìm hiểu vai trò lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn này, em chọn đề tài: Sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh bảo vệ, xây dựng chính quyền thời kỳ 1945-1946 làm tiểu luận hết môn học.
Post Type Description
Tiểu luận: Nghệ thuật chỉ đạo kháng chiến và kết thúc chiến tranh của Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
NỘI DUNG
Chiến tranh là thử thách lớn đối với mỗi quốc gia dân tộc trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Thử thách đó càng lớn hơn nhiều với nước ta vào cuối nǎm 1946. Nền độc lập mới gình lại được 16 tháng, chính quyền chưa được củng cố vững mạnh, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, nên các mặt đời sống xã hội chưa thật sự ổn đinh, mà dân tộc ta đã phải đương đầu với cuộc chiến tranh trên quy mô toàn quốc. Sớm ý thức được “sự mâu thuẫn giữa Anh – Mỹ – Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh – Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương”, Đảng và Nhà nước ta đã tích cực, chủ động chuẩn bị mọi mặt để sẵn sàng đối phó với hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, đồng thời làm hết sức mình để cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp không mở rộng ra cả nước. Nhân dân ta muốn hoà bình, ta đã nhân nhượng, nhưng thực dân Pháp càng lấn tới, buộc nhân dân ta phải cầm súng để bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám 1945. Vào lúc 20 giờ ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ.
I- ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CHI PHỐI TIẾN TRÌNH CUỘC KHÁNG CHIẾN.
Kháng chiến toàn quốc xảy ra trong điều kiện so sánh tương quan lực lượng không có lợi cho ta. Đối tượng tác chiến của ta là đội quân nhà nghề của thực dân Pháp, có trang bị tối tân, có trình độ tác chiến và chỉ huy cao – một quân đội có kinh nghiệm trong chiến tranh xâm lược, đã thống trị nước ta gần một thế kỷ, đội quân của một nước tư bản phát triển, có tiềm lực kinh tế, khoa học và kỹ thuật khá hiện đại. Đến cuối nǎm 1946, đội quân này gồm 10 vạn tên đã có mặt trên đất nước ta. Hành động đánh chiếm Việt Nam và Đông Dương của thực dân Pháp nằm trong âm mưu và chiến lược phản kích toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Pháp chiếm đóng Đông Dương nhằm ngǎn chặn làn sóng cách mạng và chủ nghĩa xã hội ở vùng Đông Nam châu á. Chính vì vậy Anh, Mỹ tạo điều kiện thuận lợi cho Pháp trở lại xâm lược Đông Dương và điểm mấu chốt là Việt Nam. ở nước Pháp, giai cấp tư sản và lực lượng phản động được Mỹ giúp đỡ đang tích cực hoạt động trành giành quyền lực trên vũ đài chính trị. Trong lúc đó, lãnh tụ của Đảng xã hội Pháp từ chối hợp tác với Đảng cộng sản Pháp để giải quyết các vấn đề chính trị, xã hội. Điều đó tạo cơ hội thuận lợi cho lực lượng thân Mỹ và phái chủ chiến trong Chính phủ Pháp trong việc đánh chiếm lại Đông Dương và
Tiểu luận: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong giai đọa hiện nay
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
Năm 1947, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc – một tác phẩm nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh – đã đề cập rất nhiều nội dung cơ bản về tư cách, đạo đức người cách mạng, về phương thức, phong cách lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Lãnh đạo đúng có nghĩa là: phải quyết định mọi vấn đề một cách đúng đắn; phải tổ chức sự thi hành cho đúng; phải tổ chức sự kiểm soát. Như vậy, Người đã chỉ ra những yếu tố tạo nên sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đó cũng chính là quy trình, cách thức, phương pháp lãnh đạo đúng đắn của Đảng
Khái niệm phương thức lãnh đạo của Đảng được dùng chính thức ở Việt Nam lần đầu tiên tại Hội nghị Trung ương 6 khoá VI (3-1989) cùng với khái niệm hệ thống chính trị. Trong Nghị quyết Hội nghị đã ghi rõ: “Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị”, “đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng”, “Đảng ta phải tự đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của mình”.
Từ sau Đại hội VII trở đi, trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta, khái niệm “phương thức lãnh đạo của Đảng” được dùng rất phổ biến và quen thuộc. Trong báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng giai đoạn 1975 – 1995 khẳng định phương thức lãnh đạo của Đảng là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Một số đề tài nghiên cứu khoa học xã hội cấp nhà nước giai đoạn 1996 – 2000 cho rằng, phương thức lãnh đạo không chỉ là vấn đề nghiệp vụ mà trở thành vấn đề có tính quan điểm.
Ph¬ương thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống các hình thức, phương pháp, biện pháp, qui trình, lề lối làm việc, tác phong công tác mà Đảng sử dụng để tác động vào các lực lư¬ợng xã hội, các tổ chức, cá nhân…, biến các chủ tương, đư¬ờng lối, chính sách của Đảng thành nhận thức và hành động của đối tư¬ợng lãnh đạo, nhằm thực hiện bằng đ¬ược các nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra
Phư¬ơng thức lãnh đạo của Đảng biểu hiện trên các mặt sau
– Về khoa học tổ chức: Là hành động kết hợp, liên kết, tổ chức lực lượng cách mạng dư¬ới sự tác động của đ¬ường lối của Đảng.
– Về tâm lý lãnh đạo: Là hành động khơi dậy tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình cách mạng, tính tích cực xã hội của nhân dân.
– Về năng lực lãnh đạo của Đảng: Là trình độ tổ chức mọi hoạt động lãnh đạo một cách khoa học, sáng tạo, hợp qui luật khách quan, phù hợp với từng đối tư¬ợng lãnh đạo, từng lĩnh vực hoạt động.
– Về nghệ thuật lãnh đạo: Là sự kết hợp nhuần nhuyễn tính cách mạng và tính khoa học, chiến lư¬ợc và sách l¬ược, sự nhiệt tình cách mạng và trí tuệ thông minh.
– Về hiệu quả lãnh đạo: Là những ph¬ương án hành động tối ư¬u để huy động lực lư¬ợng hành động đạt kết quả cao nhất, ít tốn kém nhất
“Phương thức lãnh đạo” không hoàn toàn đồng nhất với “phương thức hoạt động”; nó là một nội dung chủ yếu trong phương thức hoạt động của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền. Khi nói phương thức lãnh đạo thì không thể tách rời nội dung lãnh đạo, và được đặt trong mối quan hệ biện chứng với tổ chức bộ máy, cán bộ, cơ chế vận hành, phong cách công tác, lề lối làm việc của hệ thống tổ chức và mỗi con người cán bộ, đảng viên, công chức.
Phương thức lãnh đạo của Đảng có nhiều phạm vi và cấp độ khác nhau:
– Đảng lãnh đạo xã hội: bao gồm các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại..
Tiểu luận: “Phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo tới đạo đức Việt Nam”
Học viện báo chí tuyên truyền
Khoa chủ nghĩa xã họi
Tiểu luận
“Phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo tới đạo đức Việt Nam”
MỞ ĐẦU
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học – tôn giáo lớn nhất trên thế giới, tồn tại rất lâu đời. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và số lượng phật tử đông đảo được phân bố rộng khắp. Đạo phật được truyền bá vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Quá trình Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt Nam gắn liền với quá trình hình thành, phát triển tư tưởng, đạo đức của con người. Vì vậy khi nghiên cứu lịch sử, tư tưởng đạo đức Việt Nam không thể không đề cập đến Phật giáo và những mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, chủ nghĩa Mác – Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn còn ảnh hưởng nhất định, trong đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của một số bộ phận dân cư Việt Nam, nhất là trong tư tưởng đạo đức của người Việt. Giai đoạn hiện nay khi chúng ta phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, một mặt nền kinh tế đó tạo đà cho đất nước phát triển, mặt khác những tiêu cực của kinh tế thị trường cũng tác động trực tiếp tới đời sống của nhân dân. Một trong những mặt trái của nền kinh tế thị trường đó là các giá trị đạo đức trong xã hội đang bị suy thoái. Trong bối cảnh như vậy việc xây dựng và phát triển nền đạo đức của dân tộc là rất cần thiết. Phật giáo với sự tác động mạnh mẽ đến đời sống tinh thần người Việt cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các giá trị đạo đức của dân tộc. Với những lý do trên tôi chọn đề tài “Phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo tới đạo đức Việt Nam” để làm rõ những tư tưởng cơ bản và ảnh hưởng của phật giáo tới đạo đức trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Tiểu luận “Nội dung cơ bản về phép biện chứng trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên “.
MỞ ĐẦU
1. Lý do và tính cấp thiết của đề tài
Ăngghen không chỉ là một nhà cách mạng, một lãnh tụ vĩ đại của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, một nhà khoa học, một nhà triết học xuất sắc… Người đã cùng Mác tạo nên một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Những tác phẩm mà Mác – Ăngghen để lại đã chứng tỏ điều đó, đặc biệt với tác phẩm “Biên chứng của tự nhiên” là một minh chứng sinh động cho nhận định này.
Tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” của Ăngghen được viết vào những năm 1873-1883, phần bổ sung của tác phẩm được viết vào những năm 1885-1886. Đây là Một tác phẩm chưa được hoàn thành, được viết dưới các bài tản mạn, các trích đoạn, bản thảo… Khi ông còn sống , những tài liệu liên quan đến tác phẩm chưa được công bố. Sau khi ông qua đời 30 năm, tác phẩm đã được xuất bản lần đầu tiên bằng tiếng Nga, tiếng Đức ở liên Xô ( tức là năm 1925).
“Biên chứng của tự nhiên” ra đời trong hoàn cảnh sau: Công xã Pari (1871) thất bại đã đánh dấu thời kỳ đi xuống của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản, nhưng nó cũng giúp giai cấp vô sản rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu, và là cơ sở thực tiễn xã hội giúp C.Mác và Ph.Ăngghen khái quát và phát trển lý luận của mình. Khoa học tự nhiên có những bước phát triển mạnh mẽ. Hàng loạt các phát minh của khoa học tự nhiên đã ra đời tạo ra bước ngoặt cách mạng trong khoa học tự nhiên, tiêu biểu nhất là ba phát minh vĩ đại: ” Đinh luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng”; ” Thuyết tiế n hoá”; ” Thuyết tiến hoá”. Những thành tựu khoa học tự nhiên đã chứng minh sự phát triển trong thế giới khách quan là vô cùng, vô tận, đồng thời nó cũng cho con người thấy rằng thế giới nằm trong mối liên hệ phổ biến, liên hệ giữa vô cơ và hữu cơ, giữa chất sống và chất không sống,, giữa động thực vật và môi trường… Đó là những nguyên lý cơ bản của phép biên chứng. Những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã đạt được cho đến lúc bấy giờ đã chứng tỏ bằng lý luận nhân thức và phương pháp siêu hình từ lâu đã từng giữ vị trí thống trị trong khoa học không còn phù hợp nữa.
Trước hoàn cảnh nói trên, Ăngghen đã viết tác phẩm “Biên chứng của tự nhiên” với mục đích trước hết là phân tích, tổng kết những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, từ đó giải quyết những vấn đề quan trọng của triết học và khoa học tự nhiên, xây dựng hệ thống quan niệm biện chứng về giới tự nhiên cả về thế giới quan và phương pháp luận khoa học. Tác phẩm không chỉ là biểu mẫu của chủ nghĩa duy vật mà còn là biểu mẫu của phép biên chứng duy vật.
Tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” bàn nhiều đến vấn đề từ tự nhiên đến lịch sử, từ lịch sử của khoa học đến lịch sử của phép biện chứng, từ quan niệm về vận động của vật chất đến các phcs thảo sơ thảo về vận động xã hội. Song, mục đích của tác phẩm chủ yếu tập ở chính tên gọi của nó “Biện chứng của tự nhiên”. Ăngghen đã phân tích phép biện chứng khách quan trong tự nhiên, mối liên hệ giữa tư duy khoa học cũng như những thành tựu của nó với tư duy triết học, tính định hướng của phép biện chứng duy vật đối với khoa học, tự nhiên. Phép biện chứng duy vật với tư cách là nhận thức và cải tạo thực tiễn đã được Ăngghen phân tích và trình bầy một cách khoa học, thuyết phục bởi những lập luận và dẫn chứng xác đáng. Việc nghiên cứu và làm rò những tư tưởng cơ bản về phép biện chứng trong tác phẩm này một mặt giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về phép biện chứng duy vật, vận dụng phép biên chứng duy vật trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới một cáhc có hiệu quả. Mặt khác việc nghiên cứu đó giúp chúng ta đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc hòng bác bỏ phép biện chứng duy vật của những lực lượng cơ hội và phản động, góp phần vào việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, phép biện chứng duy vật nói riêng… Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Nội dung cơ bản về phép biện chứng trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên “.