MỞ ĐẦU
Một trong những vấn đề quan trọng quyết định đến vận mệnh của dân tộc – đó là tư duy nhận thức của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, hoạt động nhận thức (tư duy) của Đảng có vai trò, ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Trên cơ sở của một nhận thức nhất định mà Đảng vạch ra đường lối, chủ trương, chính sách. Nhận thức đúng, sai quyết định đến xu hướng, bước tiến, qui mô và có thành bại của cuộc cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những thành tựu nổi bật và độc đáo trong tư duy về con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đã được chủ nghĩa Mác – Lênin giải quyết khá căn bản về mặt lý luận. Dường như, sau khi giành được chính quyền, các Đảng Cộng sản chỉ việc quán triệt cho đầy đủ những luận điểm lý luận và sử dụng kinh nghiệm của các nước đi trước cho phù hợp với hoàn cảnh nước mình. Nhiều lắm là đem đến cho nó một vẻ riêng biệt nào đó trên cơ sở của cùng một con đường, đã được hình dung sẵn. Nhưng trong thực tế ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và ở Việt Nam, đã có một quá trình không đơn giản, thậm chí có không ít vấp váp, sai lầm, đến độ phải đổi mới nhận thức về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đảng ta hình dung ngay từ khi thành lập Đảng. Đó là con đường sau khi đã hoàn thành cuộc cách mạng điền địa và phản đế, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không qua phát triển tư bản chủ nghĩa. Đảng đã bước đầu chuẩn bị cho những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhưng phải đến năm 1954, sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, vấn đề quá độ mới thực sự được đặt ra. Những kinh nghiệm và nhận thức của hai Đảng lớn Liên Xô, Trung Quốc về thời kỳ quá độ khi ấy được thừa nhận là có ý nghĩa phổ biến.
Vì những lí do chủ quan và khách quan, mặc dù có nêu việc đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội (tại Hội nghị Trung ương lần VIII, 8-1955). Thời kỳ kỳ 1954 – 1957 Đảng chưa thể vạch ra một chương trình tổng thể xây dựng miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội. Những giải pháp kinh tế-xã hội xuất phát từ thực tiễn đất nước nhằm khôi phục kinh tế… đã tỏ ra có hiệu quả to lớn. Nhưng nó sớn bị ngưng lại và dường như chỉ được coi là chuẩn bị tiền đề cho miền Bắc bắt đầu vào thời kỳ quá độ, hơn là những biện pháp, chủ trương cần có của chính thời kỳ quá độ.
Khi rõ ràng không còn khả năng hiệp thương hoà bình giải quyết vấn đề thống nhất đất nước, khi gánh nặng của cuộc cách mạng ở từng miền và cả nước tuỳ thuộc vào đôi vai của miền Bắc và sau Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân ở Matxơcơva 1957 và 1960. Đảng dứt khoát khẳng định miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ và mặc nhiên thừa nhận những quy luật của cuộc cách mạng theo các mô hình chung lúc đó.
Nhà nước chuyên chính vô sản trên nền tảng kinh tế của chế độ công hữu dưới hai hình thức: toàn dân và tập thể, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiến hành các cuộc cải biến về văn hoá – tư tưởng nhằm thiết lập hình thái kinh tế – xã hội xã hội chủ nghĩa. Từ Đại hội III (9-1960) đến Đại hội IV (12-1976) của Đảng, những quan điểm đó không thay đổi, về hình thức, bước đi để giải quyết các nhiệm vụ kinh tế – chính trị của thời kỳ quá độ – Chủ trương tương đối nhất quán của Đảng là phải tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Từ 1976, Đảng có chủ trương kết thúc thời kỳ quá độ sau vài ba kế hoạch 5 năm. Có thể nói, với công thức chuyên chính vô sản – chế dộ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, mà Đại hội IV đề ra những quan niệm về “chủ nghĩa xã hội – Nhà nước” đã đạt đến nhận thức cao nhất vượt qua những điều kiện thực tiễn đất nước.
Nội dung nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thời kỳ 1975 – 1986 đã được nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên cứu tổng kết bằng những nhận định, tư liệu phong phú và sâu sắc. Trong bài viết này tôi xin đi sâu hơn về quá trình nhận thức của Đảng. Đó là quá trình tìm tòi, phát hiện và không ngừng đấu tranh để giữ vững lập trường cách mạng theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Quá trình nhận thức được chia làm 2 thời kỳ và được đánh dấu bằng hai kỳ đại hội. Đó là đại hội IV và V của Đảng. Từ 1975 – 1986 nhận thức của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội càng được củng cố và nâng cao hơn.
Ở đề tài này tôi sử dụng phương pháp tập hợp hệ thống tư liệu, lịch sử, lôgíc, so sánh… để làm rõ nội dung của đề tài. Mặc dù đã rất cố gắng tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu. Nhưng do thời gian còn hạn hẹp, đề tài đòi hỏi kiến thức phân tích tổng hợp cao, kinh nghiệm còn chưa nhiều, nhất là trong việc xử lý tài liệu nên bài tiểu luận của tôi không tránh khỏi những thiếu sót, mong có sự đóng góp của thầy cô và bạn bè.
Post Type Description
TIỂU LUẬN: NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG TRUYỀN THỐNG DỰNG N ƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
MỞ ĐẦU
Giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc ta. Trong hệ giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, các giá trị đạo đức chiếm vị trí nổi bật, tạo nên cốt lõi của nó. Nói đến các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta là nói đến đặc thù của đạo đức Việt Nam với những phẩm chất tốt đẹp đã hình thành và được bảo lưu cho đến thời điểm hiện tại. Đó là các giá trị nhân văn mang tính cộng đồng, tính ổn định tương đối, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thể hiện trong các chuẩn mực mang tính phổ biến có tác dụng điều chỉnh hành vi giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và xã hội. Xét trong tương quan với thế giới và khu vực, đặc biệt là với các dân tộc phương Đông, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta có những nét chung với nhiều dân tộc khác vì các dân tộc trong quá trình hình thành và phát triển của mình đều phải giải quyết những vấn đề chung như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ổn định và phát triển đời sống xã hội… Mặt khác, sự giao lưu quốc tế diễn ra thường xuyên ở mức độ này hay mức độ khác, nhất là với các nước gần nhau đã ảnh hưởng đến nhau khá rõ rệt. Cái khác nhau ở đây là trật tự sắp xếp các giá trị đạo đức, mối tương quan giữa chúng và những sắc thái riêng hình thành trong điều kiện lịch sử đặc thù của từng dân tộc qua suốt chiều dài lịch sử phát triển của nó. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta là do cộng đồng người Việt Nam tạo dựng trong lịch sử phát triển lâu dài trên giải đất Việt Nam với tất cả những điều kiện lịch sử đặc thù tạo nên bản sắc độc đáo của nó
NỘI DUNG
1. Cơ sở hình thành các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam
Truyền thống bao giờ cũng là sản phẩm của một cộng đồng tồn tại lâu đời trên một vùng đất nhất định. Truyền thống dựng nước gắn với giữ nước của Việt Nam là do cộng đồng người Việt tạo dựng trong lịch sử lâu đời trên dải đất Việt Nam với tất cả những điều kiện và đặc điểm của Tổ quốc Việt Nam.
Vậy những đặc thù tạo nên truyền thống của Việt Nam là gì?
Trước hết, Việt Nam là nước có vị trí quan trọng của vùng Đông Nam Á. Nằm ở góc cực Đông-Nam của đại lục Châu Á, nước ta vừa nhìn ra Thái Bình Dương với bờ biển dài trên 3200 km, vừa nối liền với lục địa bằng hệ thống giao thông thuỷ bộ và đường không, thuận lợi từ Nam lên Bắc, từ Đông sang Tây. Là vùng khí hậu phù hợp với nghề nông nghiệp trồng lúa nước, quanh năm cây cỏ xanh tươi, lại nhiều khoảng sản, thuỷ hải sản, tạo ra tiềm năng cho sự phát triển của dân tộc. Tuy nhiên, Việt Nam cũng nằm trong khu vực có khí hậu nóng ẩm hà khắc, thường xuyên có bão lụt, hạn hán, núi non hiểm trở, dân cư phân bố không đồng đều trong các vùng, ở đồng bằng tập trung đông đúc, miền núi tương đối thưa thớt. Ở Việt Nam, hệ thống sông ngòi khá dày đặc, để có khắc phục tình trạng ngập lụt trong các mùa mưa bão, người dân phải tích cực xây dựng hệ thống đê điều, kênh mương.
Nước ta trong lịch sử cổ đại và trung đại luôn luôn bi đè nặng bởi bóng đen của những đế chế hùng mạnh từ phương Bắc. Đối với đế chế đó, phương Nam luôn là miền đất lạ, giàu có, nhiều sản vật quý. Dải đất phương Nam nằm giữa vùng núi cao trùng điệp và một bên là đại dương mênh mông, luôn luôn là cái hành lang cần thiết cho tham vọng bành trướng với những đoàn quân khổng lồ rong ruổi vó ngựa từ Bắc xuống Nam Á.
Tiểu luận: “Lý luận về con người và vấn đề về đào tạo nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước”
Tiểu luận triết học
“Lý luận về con người và vấn đề về đào tạo nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước”
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
Lời nói đầu. 3
Nội dung 3
Ý kiến cá nhân. 3
I. Lý luận về con người. 4
1.Khái niệm chung về con người: 4
2.Con người là một thực thể sinh học- xã hội . 4
3.Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội. 6
II. Vấn đề đào tạo nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hiện đại hoá ở nước ta. 7
1.Thế nào là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 7
2.Giáo dục đào tạo nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta: 7
a. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta. 7
b. Một số giải pháp nhằm giải quyết hợp lý vấn đề về nguồn nhân lực. 10
c.Ý kiến cá nhân. 14
1. Việt Nam trong dòng chảy chung của thời đại . 14
2 Việc làm của người lao động và vấn đề đổi mới chính sách tiền lương. 15
3) Sinh viên Việt nam trước những yêu cầu thách thức mới. 20
4) Tham khảo một số chính sách phát triển nguồn nhân lực và giáo dục đào tạo nguồn nhân lực ở một số nước khác 23
. KẾT LUẬN. 26
Các tài liệu tham khảo: 26
LỜI MỞ ĐẦU
“Dân tộc chúng tôi hiểu đầy đủ rằng: dân tộc mình là một dân tộc nghèo, một đất nước đang phát triển ở mức thấp… Chúng tôi hiểu rõ khoảng cách giữa nền kinh tế của chúng tôi và nền kinh tế của những nước phát triển trên thế giới. Chúng tôi hiểu rõ khoa học công nghệ trong thế kỷ 21 sẽ có những bước tiến khổng lồ. Thực hiện tư tưởng vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh: Lấy sức ta mà giải phóng cho ta, chúng tôi phải tri thức hoá Đảng, tri thức hoá dân tộc, tiếp tục tri thức hoá công nông, cả nước là một xã hội học tập, phát huy truyền thống những ngày mới giành được độc lập 45, cả nước học chữ, cả nước diệt giặc dốt, cả nước diệt giặc đói… Phải nắm lấy ngọn cờ khoa học như đã nắm lấy ngọn cờ dân tộc. Một dân tộc dốt, một dân tộc đói nghèo là một dân tộc yếu” (Lê Khả Phiêu- Tổng bí thư ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Việt Nam- Phát biểu tại hội thảo quốc tế tại Việt Nam trong thế kỷ 20) Không, dân tộc chúng ta nhất định không phải là dân tộc yếu. Chúng ta đã từng chiến thắng bọn thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thắng lợi đó là thắng lợi của lực lượng trí tuệ Việt Nam đối với lực lượng sắt thép và đô la khổng lồ của Mỹ. Con người Việt Nam đã làm được những điều tưởng như không thể làm được, và tôi tin rằng, con người Việt Nam trong giai đoạn mới với những thử thách mới vẫn sẽ làm được những điều kỳ diệu như thế. Đất nước Việt Nam sẽ sánh vai được với các cường quốc năm châu cho dù hiện nay chúng ta gặp rất nhiều khó khăn, rất nhiều sự đối đầu.
Chính vì niềm tin bất diệt đó mà tôi chọn đề tài: Lý luận về con người và vấn đề về đào tạo nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước cho tiểu luận triết học của mình. Biết đâu, trong chút kiến thức bé nhỏ này lại có điều gì thật sự hữu ích …
Tiểu luận: Kinh nghiệm xây dựng lực lượng và khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám năm 1945
MỞ ĐẦU
Hơn sáu thập kỷ trước, vào những ngày giữa tháng Tám này, Trung ương Đảng mở Hội nghị Tân Trào với sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh để luận bàn quyết định phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa.
Dưới ngọn cờ tiền phong của đảng, đồng bào ta từ Bắc chí Nam từ non ngàn đến thôn dã, từ thị thành đến biển đảo, triệu người như một đồng loạt vùng lên, nhất tề xốc tới như thác lũ tràn về, như sóng thần ập tới cuốn phăng cả thành trì 80 năm của đế quốc thực dân, hàng nghìn năm phong kiến, lập nên chính quyền nhân dân trên toàn lãnh thổ.
Nhân tố quyết định thắng lợi của Cách mạng tháng Tám chính là sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng mà trực tiếp là của 5.000 đảng viên tiền bối. Vâng, chỉ có 5.000 người cộng sản thôi, nhưng là những chiến sĩ vô cùng kiên trung bất khuất, một lòng vì nước vì dân, sáng ngời dũng khí chiến đấu, được tôi rèn trong quá trình hoạt động cách mạng từ khi Đảng ra đời 15 năm trước. Đó là đội ngũ xung kích đi tiên phong vào sống ra chết không sờn lòng, đầu rơi máu chảy không lùi bước, tra tấn tù đầy không khuất phục, kiên quyết lãnh đạo toàn dân đưa cuộc tổng khởi nghĩa đến thành công trong cả nước sau 15 ngày bão táp cách mạng.
Tổ quốc đời đời ghi công, tưởng nhớ những đảng viên tiền bối hạt nhân ấy đã làm nên chiến thắng lịch sử huy hoàng trong cuộc Tổng khởi nghĩa. Tiếp đến giành thắng lợi trọn vẹn trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, để đất nước có vị thế hôm nay của kỷ nguyên mới độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, sánh vai cùng bầu bạn bốn bể năm châu. Trong đó tinh thần cách mạng tháng Tám bất diệt luôn là động lực của nguồn sức mạnh chiến đấu, lao động xây dựng bảo vệ đất nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thế hệ hôm nay mở lại trang sử vàng của dân tộc từ mùa thu ấy, càng trân trọng đối với quá khứ của cha ông, của lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại, tiêu biểu là những đảng viên công sản – dù nay các vị tiền bối ấy đã hy sinh, hay còn thượng thọ, hoặc đã thanh thản ra đi yên nghỉ trong cõi vĩnh hằng để hôm nay đất nước nở hoa độc lập, kết trái tự do.
Thật là một điều kỳ diệu, lúc ấy chỉ với 5.000 đảng viên, và chưa hề có một công cụ pháp quyền nào, song bằng ý chí kiên trung bất khuất của người cộng sản, với tinh thần quật khởi của nhân dân đồng lòng theo Đảng, đã giành thắng lợi trọn vẹn trong một cuộc cách mạng long trời lở đất, để lại dấu ấn của một sự tích thần kỳ, trở thành mốc son chói lọi và truyền thống quý báu của dân tộc mà Đại hội Đảng IX đã trân trọng tôn vinh về chiến công vẻ vang nhất trong thế kỷ XX của dân tộc ta.
Hôm nay mùa thu tháng Tám lại về. Ngược dòng thời gian, hồi niệm lịch sử, sống lại khí thế hào hùng những ngày khởi nghĩa sục sôi năm xưa, càng kiêu hãnh tự hào đối với Đảng, càng giục giã các thế hệ tiếp nối bước cha ông, phát huy thành quả cách mạng tháng Tám, gắn kết lịch sử và thời đại, đưa Việt nam lên tầm cao mới, vị thế mới trong cộng đồng quốc tế.
Từ ý nghĩa đó, em lựa chọn vấn đề: “Kinh nghiệm xây dựng lực lượng và khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám năm 1945” làm đề tài nghiên cứu hết môn học.
Tiểu luận: Hội nhập kinh tế quốc tế, thời cơ và thách thức ở Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị của các nước nói riêng và của thế giới nói chung. Đó là sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới như WTO, EU, AFTA…và nhiều tam giác phát triển khác cũng là do toàn cầu hoá đem lại.
Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Bởi một nước mà đi ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ trở nên lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế. Hơn thế nữa, một nước đang phát triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt…thì việc chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại lực sẽ tạo ra thời cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quý báu của các nước kinh tế phát triển và tạo được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta sẽ từng bước khắc phục những khó khăn để đưa đất nước phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan đối với Việt Nam.
Để góp phần tìm hiểu sâu quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và những thời cơ, thách thức trong quá trình hội nhập, em chọn đề tài “Hội nhập kinh tế quốc tế, thời cơ và thách thức đối với Việt Nam” làm tiểu luận hết môn học.
Do trình độ có hạn, nguồn tư liệu chưa nhiều, thời gian gấp, nên trong quá trình nghiên cứu khó tránh khỏi những sơ suất, em rất mong các thầy cô giáo góp ý và thông cảm.