Tiểu luận: “Cải cách giáo dục, chìa khoá để cải cách nền kinh tế Trung Quốc”

MỞ ĐẦU

Từ khi nư¬ớc CHND Trung Hoa ra đời (01-10-1949) cho tới nay đã được hơn 60 năm phát triển. Tiến trình kinh tế, chính trị, xã hội có những b¬ước thăng trầm, đã có lúc rơi vào tình trạng khó khăn, đặc biệt là từ những năm cuối của thập kỷ 60 cho tới những năm đầu của thập kỷ 70, Trung Quốc bị khủng hoảng ở mọi phương diện. Như¬ng từ cuối thập kỷ 70 trở lại đây, Trung Quốc tiến hành công cuộc cải cách mở cửa, thì bộ mặt đất n¬ước có những thay đổi lớn đáng đ¬ược ghi nhận. Cùng với nó, sự nghiệp cải cách giáo dục Trung Quốc bắt đầu từ năm 1985 có những b¬ước phát triển mạnh mẽ, trở thành chiến l¬ược phát triển hàng đầu. Là mấu chốt của công cuộc cải cách mở cửa của nền kinh tế Trung Quốc – khoa giáo hưng quốc.
Từ ý nghĩa đó, Tôi lựa chọn đề tài “cải cách giáo dục, chìa khoá để cải cách nền kinh tế Trung Quốc” làm tiểu luận hết môn học: Bài học kinh nghiệm từ công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới của các nước.

NỘI DUNG
I. Sự nghiệp giáo dục Trung Quốc từ khi nước CHND Trung Hoa ra đời (1949) đến nửa đầu những năm 80
1. Giáo dục Trung Quốc giai đoạn từ sau khi giành được độc lập (1949) cho tới những năm 50.
Thắng lợi của cách mạng dân chủ mới Trung Quốc (01-10-1949) đã đưa đến sự ra đời n¬ước CHND Trung Hoa. Sự kiện lịch sử trọng đại này có một ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn, không những đối với dân tộc Trung Hoa, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với thế giới. Nhưng sau khi cách mạng thành công, do bị chiến tranh tàn phá cộng với Trung Quốc là một nư¬ớc nông nghiệp lạc hậu, cho nên đất n¬ước Trung Quốc mới ra đời bị suy yếu nghiêm trọng về kinh tế. Hội nghị hiệp thương chính trị và hội nghị trung ư¬ơng 3 khóa VII của Đảng cộng sản Trung Quốc (06-06-1950) đã xác định khôi phục kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu của đất n¬ước Trung Hoa lúc này. chính phủ Trung Quốc dùng các biện pháp tích cực để khôi phục kinh tế đất n¬ước. Qua 3 năm (1949- 1952), Trung Quốc đã thu đư¬ợc những thành tựu đáng phấn khởi cả về công và nông nghiệp. Mặt khác Trung Quốc còn tiến hành một số cải cách dân chủ khác tạo điều kiện cho Trung Quốc bước sang giai đoạn mới, đó là công cuộc xây dựng CNXH .
Tiếp sau giai đoạn khôi phục kinh tế thì Trung Quốc bước sang thời kỳ cải tạo XHCN và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế (1953- 1957) với hai nhiệm vụ chủ yếu là: thực hiện đường lối chung, từng bước cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp, tạo cơ sở bước đầu cho công cuộc công nghiệp hoá đất nước, cho nên giáo dục giai đoạn này đóng vai trò hết sức quan trọng cho công cuộc khôi phục đất nước và xây dùng cơ sở vật chất cho CNXH. Do vậy, phải xây dựng một nền giáo dục mới cho đất nước Trung Quốc mới ra đời tạo ra một bản sắc văn hoá mới dựa trên nền tảng văn hoá truyền thống.
Để đáp ứng được yêu cầu đó thì chính phủ Trung Quốc đã đặt vấn đề bồi dưỡng nhân tài cho công cuộc xây dựng đất nước càng trở nên cấp bách. Trong khi đó, sau khi chiến tranh kết thúc, Trung Quốc chỉ có vài triệu trí thức, với 80% dân số mù chữ. Trong khi đó, công cuộc khôi phục kinh tế và xây dựng cơ sở ban đầu cho CNXH đang cần rất nhiều người có năng lực, đặc biệt trong đội ngũ lãnh đạo đất nước. Nhưng trên thực tế trong số những người lãnh đạo quản lý đất nước thì có tới một nửa là mù chữ còn thiếu kinh nghiệm và tri thức xây dựng CNXH. Vì vậy, để đảm bảo cho thắng lợi của CNXH, và đảm bảo cho xây dựng đất nước Trung Quốc mới tiến lên thì phải có những chính sách đúng đắn bồi dưỡng hàng triệu người kế tục sự nghiệp cách mạng đã giành được.

Tiểu luận: THÀNH CÔNG CỦA TRUNG QUỐC TRONG THÀNH LẬP CÁC ĐẶC KHU KINH TẾ

LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra quá trình cải cách kinh tế sâu rộng ở hầu hết các nước XHCN. Việc chuyển sang các quan hệ thị trường ở những nước này đã được xác định và tiến hành. Mỗi nước đều tiến hành những biện pháp cải cách mang sắc thái riêng phù hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội và địa lí của mình nhằm xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đích thực. Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng một số nước đã đạt được những thành công nhất định trong các lĩnh vực phát triển kinh tế khác nhau như quản lý kinh tế, quan hệ sở hữu, tư nhân hoá và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước…
Không phải ngẫu nhiên mà giới khoa học kinh tế rất quan tâm đến cái gọi là con đường Trung Quốc (China’s road). Quả thật Trung Quốc có sức hấp dẫn đặc biệt với những nước định hướng XHCN. Ở đây người ta thấy cùng hoàn cảnh xuất phát điểm tư duy kinh tế mới và tính chân lý của nó sau một thời gian cải cách và mở cửa nền kinh tế. Những thành công của Trung Quốc về cải cách kinh tế nói chung và các đặc khu kinh tế (ĐKKT) nói riêng đã được thừa nhận rộng rãi ở bên trong cũng như bên ngoài nước này. Sự trỗi dậy của nền kinh tế Trung Quốc và sự phát triển thần kỳ của các ĐKKT được coi là một hiện tượng nổi bật của kinh tế thế giới cuối thế kỷ XX. ĐKKT – một loại hình khu kinh tế tự do mang tính chất tổng hợp được tổ chức theo hình thức cao nhất, đầy đủ nhất về khu kinh tế tự do – ngày càng thể hiện rõ ưu thế của mình trong thu hót đầu tư nước ngoài, là nơi hội tụ tốt nhất các yếu tố bên trong và các nguồn lực bên ngoài, là giải pháp về vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý để công nghiệp hoá- hiên đại hoá (CNH-HĐH) đất nước. Đẩy mạnh cải cách và phát triển mô hình kinh tế hướng ra bên ngoài với biện pháp xây dựng các ĐKKT theo mô hình của Trung Quốc đang là một trong những vấn đề được nhiều nước quan tâm nghiên cứu thực hiện.

Chương I
THÀNH CÔNG CỦA TRUNG QUỐC
TRONG THÀNH LẬP CÁC ĐẶC KHU KINH TẾ
I.Thành lập và quản lý các ĐKKT tại Trung Quốc
1. Quá trình thành lập các ĐKKT
1.1. ĐKKT trong chiến lược cải cách kinh tế của Trung Quốc
Trước khi thực hiện cải cách mở cửa kinh tế vào năm 1978, nền kinh tế Trung Quốc phát triển trên cơ sở lạc hậu, hạn chế các mối quan hệ kinh tế đối ngoại với bên ngoài. Là một nước XHCN xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp, Trung Quốc gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm một con đường phát triển phù hợp với thực trạng của đất nước. Chính sách nửa đóng cửa, nửa mở cửa đôi khi đóng cửa hoàn toàn với thế giới bên ngoài đã đẩy nền kinh tế Trung Quốc vào tình trạng bế tắc. Sản xuất không ổn định, hoạt động thương mại cầm chõng và cơ sở hạ tầng rất kém phát triển. Các cuộc đại nhảy vọt đã đem lại sự phiêu lưu đầy lãng phí và rối ren cho toàn bộ nền kinh tế Trung Quốc. Thêm vào đó những sai lầm của cuộc “đại cách mạng văn hoá vô sản” mà thiệt hại của nó đã lên đến 500 tỷ Nhân Dân Tệ (NDT) đã đẩy nền kinh tế Trung Quốc vào tình trạng khủng hoảng.
Xét vế đường lối đối ngoại trước năm 1978, thuyết “ba thế giới” của Mao Trạch Đông coi Mỹ và Liên Xô là thế giới thứ nhất, Nhật Bản và các nước Tây Âu là thế giới thứ hai, tù coi mình là thế giới thư ba, Trung Quốc đã tự chuốc lấy sự xa lánh của thế giới và thực sự bị cô lập. Cùng với những xung đột về tư tưởng chính trị trong nước, đường lối đối ngoại trên đã gây thiệt hại lớn cho Trung Quốc.
Trước tình hình đó, Đảng Cộng Sản và nhân dân Trung Quốc đã tìm mọi cách để thoát ra. Do đó, nhu cầu cần có một cuộc cải cách làm thay đổi và chuyển biến căn bản tình hình và đưa Trung Quốc vào quỹ đạo phát triển của thế giới là cần thiết. Điều đó đòi hỏi phải cải cách thể chế XHCN mà trước hết là thể chế kinh tế và thể chế chính trị. Trong lúc nền kinh tế xã hội Trung Quốc đang đứng trên bờ vực sụp đổ thì những thay đổi lớn lao về nhận thức này là ngọn gió tốt lành giúp Trung Quốc giải quyết được những vấn đề sai lầm do quá khứ để lại, mở đường cho sức sản xuất phát triển, là động lực mạnh mẽ góp phần đưa đất nước Trung Quốc đi tới một tương lai tốt đẹp hơn.

Tiểu luận: Giải quyết vấn đề dân tộc – dân chủ qua các cương lĩnh của Đảng

LỜI MỞ ĐẦU

Từ khi thành lập Đảng cho đến nay, trải qua hơn tám mươi năm đấu tranh anh dũng, Đảng ta đã đưa giải cấp công nhân và nhân dân Việt Nam vượt qua những bước đường đầy chông gai, gian khổ và đã giành được những thắng lợi vẻ vang. Thắng lợi đó chứng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng ta là đúng đắn. Đó là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin trong một nước nông nghiệp và thuộc địa ở Đông Nam Á, đó là kinh nghiệm vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào những điều kiện cụ thể của Việt Nam; mà trong đó không thể không kể đến công lao to lớn của vị lãnh tụ vĩ đại Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.

Tiểu luận: “Vận dụng các nguyên lý về đảng kiểu mới của V.I.Lênin trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay”

MỞ ĐẦU

V.I. Lênin đã từng tuyên bố: “Hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng, và chúng tôi sẽ đảo lộn nước Nga lên”. Tổ chức những người cách mạng mà Lênin nói đến đó là “một đảng kiểu mới, thực sự cách mạng và thực sự cộng sản”. Bởi theo Người “chỉ có Đảng Cộng sản, nếu nó thực sự là đội tiền phong của giai cấp cách mạng, nếu nó bao gồm tất cả những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp đó, nếu nó gồm tất cả những chiến sĩ cộng sản hoàn toàn có ý thức và trung thành, có học vấn và được tôi luyện bằng kinh nghiệm đấu tranh cách mạng bền bỉ; nếu nó biết gắn liền toàn bộ với cuộc sống của giai cấp mình và thông qua giai cấp đó, gắn liền với tất cả quần chúng bị bóc lột và biết làm cho giai cấp và quần chúng đó tin tưởng hoàn toàn vào mình”. Và, để cho Đảng “thực sự là đội tiền phong của giai cấp cách mạng”, kế thừa, phát triển những tư tưởng của C.Mác và Ph. Ănghen, V.I. Lênin đã phát triển thành học thuyết về “đảng kiểu mới” của giai cấp công nhân. Đồng thời, là người không chỉ có công đầu trong việc thành lập chính Đảng vô sản kiểu mới (Đảng Công nhân dân chủ – xã hội Nga – tiền thân của Đảng Cộng sản Liên Xô sau này) mà còn là lãnh tụ hết sức quan tâm chăm lo xây dựng Đảng về mọi mặt. Tư tưởng của Lênin về “đảng kiểu mới” và xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền chính là sự bảo vệ và phát triển sáng tạo, độc đáo học thuyết Mác về Đảng cách mạng trong điều kiện nước Nga những năm đầu của thế kỷ XX.
Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý về “đảng kiểu mới” của Lênin. Trãi qua quá trình phát triển và trưởng thành, Đảng ta đã chứng minh một cách sâu sắc sự đúng đắn của những nguyên lý của Lênin về xây dựng đảng. Chính nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó vào điều kiện cụ thể của Việt Nam mà Đảng ta đã thành một đảng vô sản dồi dào sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo, cùng nhân dân tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tiến hành công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay, việc vận dụng quan điểm của Lênin về xây dựng “đảng kiểu mới” của giai cấp công nhân vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ đổi mới ở nước ta là một việc rất cần thiết nhằm thực hiện tốt công tác lãnh đạo và tổ chức công cuộc đổi mới đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Chính vì lẽ đó, tôi đã chọn đề tài: “Vận dụng các nguyên lý về đảng kiểu mới của V.I.Lênin trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận.

Tiểu luận: “Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm về đoàn kết quốc tế của cách mạng Việt Nam (1954 -1975)”

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ – HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN LỊCH SỬ ĐẢNG

TIỂU LUẬN

HỌC PHẦN: NHỮNG BÀI HỌC CHỦ YẾU VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Đề tài: “Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm về đoàn kết quốc tế của cách mạng Việt Nam (1954 -1975)”

Họ và tên : Vũ Minh Thành
Lớp : Cao học khoá 18 không tập trung.
Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Na

Hà Nội, tháng 2 năm 2013

PHẦN MỞ ĐẦU

Như chúng ta đã biết đoàn kết quốc tế là một truyền thống vô cùng quý báu, là bài học lịch sử vô giá trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, thắm nhuần được truyền thống yêu nước-nhân nghĩa-đoàn kết của dân tộc, ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã tiếp thu, vận dụng và phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế trong suốt chặng đường cách mạng Việt Nam, từng bước đưa cách mạng Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn, thử thách lớn, giàng thắng lợi hoàn toàn, thống nhất nước nhà và tiến lên xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như ngày hôm nay. Đoàn kết quốc tế đã trở thành một phương châm hành động và nó cũng là một trong những nhân tố cơ bản, có tính quyết định bảo đảm sự thắng lợi của cách mạng nước nhà, góp phần làm nên những mốc son chói lọi, những trang sử hào hùng trong lịch sử dân tộc. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1991, cương lĩnh đã tổng kết năm bài học của cách mạng nước ta, trong đó có bài học “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế”.
Tập hợp lực lượng cho bất kỳ một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nào cũng có hai bình diện: quốc gia và quốc tế. Nếu tranh thủ được sự ủng hộ, liên hiệp hành động của các lực lượng quốc tế, thì sức mạnh của dân tộc sẽ được tăng lên gấp bội. Do vây, song song với chủ trương tập hợp sức mạnh dân tộc, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức quan tâm tới mặt trận quốc tế tập hợp lực lượng, tranh thủ mở rộng đoàn kết và ủng hộ quốc tế cho sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam.
Nếu đoàn kết dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của dân tộc thì đoàn kết quốc tế làm tăng thêm sức mạnh cho các dân tộc
Vì vậy từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới: “Cách mạng An Nam cũng là một phận trong cách mệnh thế giới. Ai là cách mệnh thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”.
Đảng ta luôn nhận thức và thực hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa phong trào cách mạng trong nước với phong trào cách mạng và lực lượng tiến bộ trên thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong cương lĩnh chính trị năm 1930 và cương lĩnh năm 1991, Đảng ta luôn quan tâm nhiệm vụ đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại một nhiệm vụ chiến lược.
Và cũng nhờ vào truyền thống quý báu đó, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân dân ta tiêu diệt, làm tan rã và xóa bỏ toàn bộ bộ máy chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, đưa sự nghiệp chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi cuối cùng, thắng lợi này đã mở ra một giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam.-giai đoạn cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một chiến công lớn của thế kỷ XX, Mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, là một thiên anh hùng ca bất hủ của chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Góp phần vào thắng lợi trường kỳ đó, có nhiều yếu tố và Đoàn kết quốc tế cũng là một trong những nguyên nhân cực kỳ quan trọng dẫn đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954-1975.
Với tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài “Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm về đoàn kết quốc tế của cách mạng Việt Nam (1954 -1975)”