Tiểu luận: Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (mở rộng) “về tăng cường đoàn kết, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà” soi sáng con đường cách mạng Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU

Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 là một minh chứng điển hình thành công trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với cuộc đấu tranh cách mạng ở Miền Nam nói riêng và cách mạng Việt Nam nói chung.
Sau khi ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về lập lại hòa bình ở Đông Dương (20-7-1954), quân và dân ta nghiêm chỉnh thi hành các điều khoản của Hiệp định. Trái lại, cả Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm tìm mọi cách phá bỏ Hiệp định, cự tuyệt hiệp thương tổng tuyển cử, đàn áp đẫm máu những người cộng sản, cán bộ kháng chiến và người dân yêu nước sử dụng đấu tranh chính trị, đòi dân sinh, dân chủ, hòa bình. Tình hình này diễn ra trong một thời gian dài làm cho phong trào đấu tranh cách mạng bị tổn thất nặng nề.
Trong hai năm 1957-1958, Đảng đã có những cuộc họp bàn về cách mạng Miền Nam nhưng chủ trương, biện pháp đấu tranh vẫn chưa thay đổi, phong trào cách mạng tiếp tục bị đàn áp và tổn thất nặng nề.
Thực tế là từ tháng 6-1956, Bộ Chính trị đã ra nghị quyết khẳng định “đấu tranh chính trị không có nghĩa là tuyệt đối không dùng hình thức vũ trang tự vệ trong hoàn cảnh nhất định”; và sau đó, tháng 8-1956, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, đã viết “Đề cương cách mạng Miền Nam”, cũng đề cập đến vấn đề bạo lực cách mạng và đấu tranh vũ trang, song chúng ta chưa sử dụng hình thức đấu tranh vũ trang một cách mạnh mẽ, thích hợp để đối phó với sự đàn áp, khủng bố tàn bạo của kẻ thù, nên cách mạng Miền Nam vẫn tiếp tục bị tổn thất.
Mặc dù bị chính quyền Ngô Đình Diệm thẳng tay khủng bố, song cán bộ, đảng viên, quần chúng yêu nước ở Miền Nam cơ bản vẫn nghiêm túc chấp hành chủ trương đấu tranh và sự chỉ đạo của Đảng, không manh động. Điều đó chứng tỏ đảng viên và quần chúng vẫn tin tưởng và chờ đợi một sự thay đổi nhanh chóng, mạnh mẽ về chủ trương, phương pháp đấu tranh của Đảng đối với kẻ thù.
Nhận được những kiến nghị khẩn thiết của các tổ chức Đảng và của cán bộ, đồng bào, chiến sĩ Miền Nam yêu cầu phải nhanh chóng thay đổi hình thức đấu tranh, trên cơ sở xem xét thực tế tình hình, Bộ Chính trị đã cử ra một tổ tập trung nghiên cứu, đề xuất chủ trương, hình thức và phương pháp đấu tranh mới cho cách mạng Miền Nam để đưa phong trào cách mạng thoát khỏi tình thế hiểm nghèo, phát triển đi lên. Trong các chủ trương đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 của Đảng (khoá II) đã soi sáng con đường cách mạng Việt Nam.
Để góp phần tìm hiểu sâu nội dung Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng năm 1959, em chọn đề tài: Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (mở rộng) “về tăng cường đoàn kết, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà” soi sáng con đường cách mạng Việt Nam làm tiểu luận hết môn học.

Tiểu luận: Quan điểm của Đảng về xây dựng xã hội trong thời kỳ đổi mới.

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

Giải quyết tốt các vấn đề xã hội là một trong những chủ trương, giải pháp lớn nhằm phát triển kinh tế – xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Những vấn đề xã hội Đảng ta quan tâm bao gồm các lĩnh vực liên quan đến sự phát triển của con người và xã hội như: dân số và nguồn nhân lực, lao động và việc làm, giáo dục và y tế, đạo đức và văn hoá, những đảm bảo về an ninh và an toàn xã hội của đời sống cá nhân và cộng đồng.
Các vấn đề xã hội có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, do vị trí của con người trong xã hội quy định. Song, do địa vị của con người ở mỗi chế độ xã hội khác nhau là không giống nhau, cho nên vai trò, bản chất của các vấn đề xã hội cũng khác nhau. Trong chủ nghĩa tư bản, nhân dân lao động là người làm thuê, mục tiêu của chủ nghĩa tư bản là tăng lợi nhuận, duy trì sự thống trị của giai cấp tư sản. Để đạt tới mục tiêu đã được xác định, chủ nghĩa tư bản đã có nhiều chủ trương, giải pháp về các vấn đề xã hội, trong đó có những mặt tiến bộ như coi trọng giảm nhẹ sự bất bình đẳng trong xã hội cũng như tìm cách giảm căng thẳng trong xã hội.
Tuy nhiên, những mặt tiến bộ ấy không bền vững vì mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản là xã hội hoá của sản xuất và chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn còn tồn tại. Trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là người làm chủ, con người được coi là vốn quý nhất, mục tiêu phục vụ của chủ nghĩa xã hội là nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người. Do vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn tạo ra những khả năng khách quan để thủ tiêu tình trạng người bóc lột người, cải thiện không ngừng các điều kiện sống, tạo ra các tiền đề cho sự phát triển của cá nhân, của người lao động để họ tự giác tham gia có hiệu quả các hoạt động sống, cũng như xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội vì con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và lấy việc nâng cao chất lượng cuộc sống con người làm mục tiêu phục vụ. Đảng ta luôn nhấn mạnh phát triển kinh tế phải đi liền với việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại càng đòi hỏi phải giải quyết tốt những vấn đề xã hội, bởi lẽ phát triển kinh tế phải là sự phát triển bền vững dựa trên những yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường vững chắc…. Bền vững về mặt xã hội là bảo đảm vừa đạt được tăng trưởng kinh tế, vừa giữ được ổn định xã hội, không có những xáo trộn xung đột, nổi loạn làm ảnh hưởng đến việc huy động các nguồn lực cho sự phát triển. Trong phát triển bền vững, yếu tố kinh tế và yếu tố xã hội quyện vào nhau, hoà nhập vào nhau. Mục tiêu phát triển kinh tế phải bao gồm cả mục tiêu giải quyết những vấn đề xã hội như vấn đề việc làm, xoá đói giảm nghèo….. thoả mãn nhu cầu cơ bản của nhân dân, công bằng xã hội. Ngược lại, mục tiêu phát triển xã hội cũng nhằm tạo động lực phát triển kinh tế. Đó chính là sự khác nhau căn bản về mục tiêu phát triển giữa con đường chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn….
B. NỘI DUNG
I. Quan điểm của Đảng về xây dựng xã hội trong thời kỳ đổi mới.
1. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh – Lý luận nền tảng công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Trải qua 20 năm đổi mới, một trong những bài học quan trọng mà Đảng ta rút ra là: “trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng”. Thực tiễn phong phú và những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới hai mươi năm qua đã chứng minh giá trị to lớn của bài học đó, đồng thời cho thấy việc khẳng định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta. Tất nhiên, để làm rõ bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận ấy của Đảng ta, cần phải phân tích và làm rõ tính khoa học và cách mạng trong các luận điểm, tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là phải làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong tiến trình thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.

Tiểu luận: Đặc trưng kinh tế thị trường của Trung Quốc hiện nay

MỞ ĐẦU
Công cuộc cải cách kinh tế hơn 30 năm (1978- 2013) của Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn. Việc chuyển đổi nền kinh tế theo định hướng thị trường đã dần thay thế thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây bằng thể chế kinh tế thị trường có điều tiết. Thực lực kinh tế nhà nước vẫn được tăng cường, bản chất và định hướng XHCN được giữ vững. Sự phát triển của lực lượng sản xuất ở quốc gia đông dân nhất thế giới này đang là điều bí Èn đối với không Ýt trường phái kinh tế học phương Tây. Những thành tựu trong cải cách mở cửa Trung quốc có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đó là sự tiếp tục phát triển lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh thế giới đương đại ngày nay. Điều đó, đúng như Giang Trạch Dân đã chỉ rõ: “Qua việc tổng kết kinh nghiệm lịch sử, chúng ta thấy rằng, muốn giữ vững chủ nghĩa xã hội, điều dầu tiên là phải làm rõ chủ nghĩa xã hội là gì, xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào, đó là vấn đề lý luận cơ bản”.

PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG VIỆC XÁC LẬP MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA TRUNG QUỐC.

Cải cách là xu thế tất yếu trong sự phát triển cuả thế giới ngày nay. Cải cách, mở cửa là sự tìm tòi gian khổ trên con đường xây dựng CNXH gần 30 năm qua, là sự lùa chọn tất yếu sau khi tổng kết những bài học kinh nghiệm thực tế, là kết quả đương nhiên của sự phát triển và hoàn thiện chế độ XHCN ở Trung Quốc. Mục đích của nó là nhằm thay đổi căn bản thể chế kinh tế kế hoạch tập trung cao độ, kìm hãm sự phát triển của kinh tế để xây dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN với mục đích giải phóng và phát triển sức sản xuất xã hội, tìm tòi con đường xây dựng XHCN mang đặc sắc Trung Quốc.
1. Đánh giá về mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung được xây dựng ở Trung quốc trước cải cách (1978).
Thể chế kinh tế kế hoạch ở Trung Quốc được xây dựng theo mô hình của Liên Xô (cũ). Thể chế kinh tế kế hoạch tập trung đã từng phát huy tác dụng tích cực trong hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt thời kỳ đầu mới lập nước. Nhưng do nó loại bá quan hệ hàng hoá – tiền tệ, phủ định tác dụng của cơ chế thị trường nên sự trãi buộc của nó đối với sức sản xuất ngày càng rõ rệt. Trong thời gian lâu dài, Trung quốc thực hiện cơ chế kinh tế kế hoạch một cách chặt chẽ, coi quan hệ hàng hoá tiền tệ và kinh tế thị trường là thuộc phạm trù tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, kinh tế tư nhân, cơ chế thị trường, kinh tế thị trường không được luật pháp thừa nhận.
Để xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Trung quốc, chế độ công hữu đã được nhanh chóng xác lập. Xuất phát từ quan điểm cho rằng nền kinh tế càng thuần khiết xã hội chủ nghĩa càng tốt và quy mô các tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa càng lớn càng tốt nên các loại hình kinh tế tư nhân ở Trung quốc bị nhanh chóng xoá bỏ. Quan điểm Êy phản ánh khuynh hướng chủ quan, nóng vội, muốn hoàn thành nhanh chóng cải tạo xã hội chủ nghĩa. Thực tế, trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa khi xây dựng các tổ chức kinh tế quốc doanh, tập thể thường chú trọng về quy mô, số lượng, Ýt chó ý đến chất lượng và hiệu quả. Chính quan điểm này đã ảnh hưởng tới việc lùa chọn hình thức, bước đi trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Trung quốc, trong lùa chọn mô hình kinh tế.
Bài học lịch sử cho thấy, việc xác lập quan hệ sản xuất mới, cần phải nhận thức đầy đủ đặc điểm kinh tế – xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phải thực sự tôn trọng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Mục đích trong cải tạo xã hội chủ nghĩa phải hướng tới sự phát triển của lực lượng sản xuất. ở Trung quốc, mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung được xây dựng với hệ thống quản lý cồng kềnh, hiệu lực thấp; công tác Đảng và chính quyền chồng chéo lên nhau. Bộ máy quản lý nhà nước như vậy không thể tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế.

Tiểu luận: NHỮNG CẢI CÁCH, ĐỔI MỚI TRONG KINH TẾ Ở TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM

MỤC LỤC

Lời mở đầu
Nội dung
I. Hoàn cảnh tiến hành đổi mới và cải cách ở Trung Quốc và Việt Nam
1. Điểm tương đồng
2. Điểm khác biệt
II. Nền kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường ở Trung Quốc và Việt Nam
1. Ở Trung Quốc
2. Ở Việt Nam
III. Những cải cách và đổi mới trong kinh tế ở Trung Quốc và Việt Nam
1. Chế độ sở hữu
2. Nông nghiệp
3. Công nghiệp
4. Kinh tế đối ngoại
IV. Đường lối và chính sách mở cửa ở Trung Quốc và Việt Nam
V. Thành tựu đạt được ở Trung Quốc và Việt Nam trong cải cách, đổi mới
1. Ở Trung Quốc
2. Ở Việt Nam
VI. Những bài học kinh nghiệm trong đổi mới, cải cách
1. Ở Trung Quốc
2. Ở Việt Nam
Kết luận.

LỜI MỞ ĐẦU
Trước khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc đã trải qua hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến và thực dân. Vốn là quốc gia có diện tích lớn, đông dân, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng dưới sự thống trị của phong kiến và thực dân làm cho nền kinh tế Trung Quốc lâm vào khủng hoảng, nghèo nàn, lạc hậu. Sau khi thành lập Trung Quốc đã lùa chọn con đường xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, đưa đất nước ngày càng phát triển. Những cuộc cải cách của Trung Quốc trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội được ghi nhận như những cố gắng lớn lao nhằm tìm ra lối thoát cho một quốc gia xã hội chủ nghĩa trì trệ trở thành năng động, phát triển. Nó còn đóng góp nhiều kinh nghiệm cho các nước phát triển đi lên hiện đại.
Việt Nam là nước láng giềng với Trung Quốc, cũng phải trải qua nhiều năm dưới ách thống trị của phong kiến và chủ nghĩa đế quốc thực dân cùng với các cuộc chiến tranh liên miên đã làm cho đất nước bị tàn phá nặng nề. Ngay sau khi thành lập nước chúng ta đã kiên quyết xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội, cũng thực hiện nhiều cải cách trong kinh tế, nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn của Việt Nam đã từ lâu quan tâm đến việc theo dõi cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc, lấy đó làm kinh nghiệm cho Việt Nam. Có người cho rằng công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam rất giống với cải cách kinh tế ở Trung Quốc, thậm chí cho rằng là “bản sao” của cuộc cải cách ấy. Tuy nhiên nếu xem xét kĩ thì thấy rằng bên cạnh nhiều điểm tương đồng, cải cách kinh tế và mở cửa ở Trung Quốc với đổi mới kinh tế ở Việt Nam còn có nhiều điểm rất khác nhau. Tìm hiểu sự tương đồng và khác biệt này sẽ giúp cho ta thấy được những gì có thể tham khảo, những gì không thể hoặc không nên tham khảo từ cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc vào Việt Nam để có những đường lối chính sách phù hợp, thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế nói riêng và của toàn đất nước nói chung.

Tiểu luận: CẢI CÁCH THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ Ở TRUNG QUỐC TỪ 1978 ĐẾN NĂM 2000 VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM

MỞ ĐẦU

Thế giới trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX đầy biến động. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ diễn ra hết sức mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến hầu hết các quốc gia dõn tộc, thúc đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa nền kinh tế thế giới. Chủ nghĩa tư bản (CNTB) vận dụng được những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ, tiếp tục phát triển. Chủ nghĩa xã hội (CNXH) bộc lé những yếu kém khuyết tật, rơi vào khủng hoảng và sụp đổ ở Liờn Xụ và Đông Âu.
Những năm cuối của thập kỷ 70, đầu những năm 80, trong quan hệ quốc tế bắt đầu xuất hiện xu thế đối thoại chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình quốc tế hóa nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, tranh thủ vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý của các quốc gia tiên tiến là thời cơ và thách thức đối với các nước đang phát triển, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích tình hình quốc tế và ý thức đầy đủ về xuất phát điểm kinh tế lạc hậu của đất nước, Trung Quốc và Việt Nam đã tiến hành cải cách mở cửa và đổi mới.
Hơn 20 năm qua, Trung Quốc tiến nhanh trên con đường cải cách mở cửa và đạt được những thành tựu đáng kể. Ngay trong thời gian gần đây, khi mà nhiều quốc gia trong khu vực gặp phải những khó khăn do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ thì Trung Quốc vẫn tiếp tục giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức khá cao, sức mạnh đất nước được tăng cường, đời sống nhân dân được cải thiện, vị thế quốc tế được nâng cao.
Nguyên nhân đạt được những thành tựu to lớn nêu trên là do Trung Quốc đã tiến hành công cuộc cải cách toàn diện đất nước, trong đó cải cách thể chế kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm; đồng thời tiến hành từng bước cải cách thể chế chính trị và các lĩnh vực tương ứng khác.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có nhiều nét tương đồng về lịch sử, văn hóa, kinh tế và chính trị. Công cuộc cải cách ở Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam đã và đang được tiến hành đều do Đảng cộng sản của hai nước khởi xướng và lãnh đạo. Trong lĩnh vực cải cách thể chế chính trị, Đảng Cộng sản Trung Quốc nêu lên mục tiêu là: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) có đặc sắc Trung Quốc; còn Đảng Cộng sản Việt Nam cũng chỉ rõ: “mục tiêu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân”.
Như việc, việc nghiên cứu về cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc không chỉ có ý nghĩa khoa học, góp phần quan trọng vào việc tìm hiểu công cuộc cải cách toàn diện ở đất nước này; mà còn có ý nghĩa gợi mở những suy nghĩ về việc tiến hành công cuộc đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.