MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Xây dựng và thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở là chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa đột phá để giải quyết nhiều vấn đề bức xúc liên quan đến quyền làm chủ của nhân dân, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” [32, tr.515]. Nhận thức đúng và vận dụng sáng tạo những lời chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã sớm khẳng định mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng, của sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước. Xây dựng chế độ nhà nước dân chủ với nguyên tắc “Toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của Đảng và Nhà nước ta.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 6 năm 1997) khẳng định, khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở.
Với tinh thần đó, Đại hội IX, X của Đảng khẳng định vị trí, tầm quan trọng lâu dài và cấp thiết của vấn đề dân chủ, khẳng định mục tiêu chiến lược của cách mạng nước ta trong thời kỳ mới là thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nhằm phát huy đầy đủ, hiệu qủa quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 18/2/1998 Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VIII đã ra chỉ thị số 30 về việc xây dựng và thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở. Thể chế hoá chỉ thị của Bộ Chính trị, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa X) ban hành các Nghị quyết số 45/1998, sè 55/1998, sè 60/1998 giao cho Chính phủ ban hành các Nghị định về thực hiện qui chế dân chủ ở ba loại hình cơ sở. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/1998, sè71/1998 và số 07/1999, trong đó NĐ 29/1998 quy định về Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã, NĐ 71/1998 quy định về Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ quan hành chính và NĐ 07/1999 quy định về Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước.
Việc ra đời Chỉ thị số 30-CT/TW và các Nghị định của Chính phủ ban hành qui chế thực hiện dân chủ ở cơ sở vừa thể hiện tính cấp thiết của việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời còn đặt ra yêu cầu đối với việc xây dựng đội ngò cán bộ, công chức có đủ phẩm chất đạo đức, năng lực, làm việc có năng suất và chất lượng, không tham nhòng, lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu nhân dân. Nhân dân có quyền được công khai bàn bạc và trực tiếp quyết định những công việc quan trọng, thiết thực, gắn bó với quyền lợi và nghĩa vụ của trực tiếp của mình, đồng thời phát huy dân chủ đại diện, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của chính quyền địa phương cơ sở. Thực tiễn cho thấy: ở đâu cấp ủy đảng nhận thức rõ và quan tâm chăm lo đúng mức tới việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở thì ở đó kinh tế phát triển, đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, an ninh chính trị được giữ vững, ổn định, thu hót và tạo được niềm tin của nhân dân với Đảng với chính quyền, động viên và huy động được sức lực, trí tuệ của nhân dân trong việc thực hiện các nhiệm vụ ở địa phương đạt hiệu quả cao. Ngược lại, nếu như địa phương nào, cơ sở nào không thường xuyên quan tâm đến việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, hoặc triển khai thực hiện một cách hình thức, qua loa đại khái thì ở đó đời sống nhân dân gặp khó khăn, kinh tế nhập nhằng, chậm phát triển, an ninh chính trị mất ổn định, tình hình kiến nghị, khiếu kiện vượt cấp của nhân dân gia tăng, vv… dẫn đến phát sinh một số điểm nóng ở một số cơ sở như: Thái Bình, Hà Tây, Hưng Yên… đã từng xảy ra.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở luôn là vấn đề mang tính thời sự và đòi hỏi phát triển không ngừng, đầy tính sáng tạo. Vì thế, chúng ta vừa phải đi sâu nghiên cứu và nhận thức đúng đắn về lý luận, vừa phải thường xuyên tổng kết thực tiễn để tìm ra hình thức biện pháp tổ chức thực hiện phù hợp đưa Quy chế dân chủ vào cuộc sống. Từ khi Đảng và Nhà nước ta ban hành chủ trương xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, cho đến nay, chóng ta đã triển khai thực hiện rộng khắp trong cả nước và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước. Việc triển khai xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở thời gian qua đã chứng tỏ đây là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân, đáp ứng được nhu cầu bức thiết và lợi Ých to lớn trực tiếp của đông đảo quần chúng nhân dân lao động, được nhân dân phấn khởi đón nhận và tích cực thực hiện, vận động thực hiện, thể hiện tính ưu việt của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Từ đó người dân đã hiểu rõ hơn về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở có ý thức hơn về dân chủ và tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, sau nhiều năm thực hiện, vẫn còn một số địa phương, đơn vị chưa có chuyển biến nhiều do nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn về Quy chế dân chủ ở cơ sở trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thực tiễn cho thấy ở những nơi phong trào yếu kém, cán bộ có khuyết điểm, thiếu trách nhiệm đều không muốn triển khai thực hiện hoặc triển khai hình thức, qua loa, chiếu lệ, kiểu làm cho xong việc. Tuy nhiên, cũng có những cán bộ nhiệt tình thực hiện nhưng do trình độ hạn chế, không nhận thức đúng việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, nên quá trình triển khai, thực hiện còn nhiều khuyết điểm, yếu kém, chưa đạt yêu cầu và nội dung của quy chế. Vì thế, chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở bị hạn chế. Mặt khác còn một bộ phận nhân dân thường chỉ quan tâm đến quyền lợi nhiều hơn nghĩa vụ, chưa làm tốt nghĩa vụ công dân. Thậm chí có hiện tượng lợi dụng dân chủ và dân chủ cực đoan. Trước tình hình đó, vấn đề nghiên cứu, tổng kết thực tiễn thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đề xuất những giải pháp thích hợp, nhằm nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế này trở thành yêu cầu khách quan, cấp bách.
Do điều kiện thời gian, kinh phí không cho phép nghiên cứu đầy đủ và toàn diện vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ ở cả ba loại hình cơ sở trên phạm vi toàn quốc, vì thế tôi chỉ giới hạn nghiên cứu Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (cấp xã) trên địa bàn một địa phương cụ thể.
Từ những cơ sở lý luận thực tiễn nêu trên tôi chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn thạc sĩ luật học với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở Hưng Yên, đồng thời góp phần hoàn thiện lý luận về thực hiện Quy chế dân chủ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề dân chủ, dân chủ ở cơ sở, quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở từ lâu đã thu hót sự quan tâm chú ý của nhiều nhà khoa học, những người làm công tác lý luận nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này của các cá nhân, tập thể được công bố. Ví dụ:
– “Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, 2003 của TS. Nguyễn Văn Sáu và GS. Hồ Văn Thông.
– “Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, 2005 của TS. Nguyễn Văn Sáu và GS. Hồ Văn Thông chủ biên.
– “Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã – Mét số vấn đề lý luận và thực tiễn” của PGS.TS Dương Xuân Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
– “Thực hiện dân chủ trong thời kỳ đổi mới ở nước ta”, của Th.S Hoàng Văn Nghĩa, Tạp chí Lý luận chính trị, số 8, năm 2002.
– “Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở”, của TS. Đặng Đình Tân và Đặng Minh Tuấn, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7/2002.
– “Quan hệ giữa thực thi Quy chế dân chủ ở cơ sở với xây dựng chính quyền cơ sở nông thôn”, của TS. Nguyễn Văn Sáu, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11-2002.
– “Chung quanh những vấn đề quy chế dân chủ ở nước ta hiện nay” của Lương Gia Ban, Tạp chí Cộng sản, sè13, tháng 5 năm 2002.
– “Dân chủ ở cơ sở một sức mạnh truyền thống của dân téc Việt Nam”, của Trần Bạch Đằng, Tạp chí Cộng sản, số 35, tháng12/2003.
– “Để thực hiện dân chủ ở cơ sở”, của Lê Quang Minh, Tạp chí Cộng sản số 11, tháng 4 năm 2003.
– “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh”, của Trịnh Ngọc Anh, Tạp chí Cộng sản, số 11, tháng 4/2003.
– “Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi mới: thành tựu, vấn đề và giải pháp”, của GS.TS Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Lý Luận chính trị, số 3/2004.
– “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và vấn đề thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, của Lê Xuân Đình, Tạp chí Cộng sản, số 20, tháng 10/2004.
– “Những điểm mới của quy chế dân chủ ở cấp xã”, của Th.S Ngô Thị Tám, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 10/2003.
– “Để thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, của Trần Quang Nhiếp, Tạp chí Cộng sản, số 2, tháng1/1999.
– “Đưa cuộc vận động thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở lên một bước mới, rộng rãi hơn, hiệu quả hơn, thiết thực hơn”, của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nông Đức Mạnh, Tạp chí Cộng sản, số 20, tháng 10/2004.
– “Dân chủ và phát huy dân chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới” của TS. Lê Trọng Ân, Tạp chí Cộng sản, số 24, tháng 12/2004.
– “Dân chủ và thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, của Th.S Phạm Văn Bính, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 8/2000.
– “Tiếp tục xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, của Trương Quang Được, Tạp chí Cộng sản, số 12, tháng4/2002.
– “Khâu đột phá của quá trình phát huy dân chủ ở nước ta trong thời kỳ đổi mới”, của Tòng Thị Phóng, Tạp chí Cộng sản, số 21, tháng 11/2003.
– “Cở sở lý luận – thực tiễn của phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và mâý vấn đề về xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở”, của Đỗ Quang Tuấn, Tạp chí Cộng sản, số 8, tháng4/1998.
– “Về dân chủ ở cơ sở”, của PGS. Nguyễn Huy Qúy, Tạp chí Cộng sản, số 4, tháng 2/2004.
– “Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991 của Thái Ninh – Hoàng Chí Bảo.
– “Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/1992 của Hoàng Chí Bảo.
– “Dân chủ ở cơ sở là điểm mấu chốt để thực hiện quyền dân chủ”, Tạp chí Quản lý nhà nước, sè1/1999 của Lê Minh Châu.
– “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Chính trị học của Nguyễn Thị Tâm, 2000.
– “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường trung học phổ thông trên địa bàn Hà Nội hiện nay – thực trạng và giải pháp”, Luận án tiến sĩ Chính trị học của Nguyễn Thị Xuân Mai, 2004…
Ngoài ra còn rất nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học, các đề tài đã được nghiệm thu, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, về vấn đề dân chủ và dân chủ hóa ở nước ta.
Các công trình nghiên cứu kể trên đã đi sâu nghiên cứu việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với với việc tăng cường củng cố, hoàn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở. Các công trình đó cũng đã cố gắng làm rõ bản chất, nội dung, tính chất và cơ chế thực hiện dân chủ. Các tác giả cũng đã chỉ ra phương hướng và giải pháp nhất định nhằm bảo đảm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Tuy nhiên, vẫn còn hiếm hoặc chưa có công trình nghiên cứu làm thế nào để nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là việc nghiên cứu tại một địa bàn cụ thể.
Vì vậy, luận văn này là một cố gắng bước đầu của tác giả, góp phần nghiên cứu, bổ sung vào chỗ còn thiếu hụt mà cụ thể ở đây là trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở tìm hiểu và đánh giá đúng tình hình thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt mục đích trên luận văn có những nhiệm vụ sau:
– Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
– Đánh giá thực tế chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
– Đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu:
Ở cấp xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
* Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Hưng Yên từ năm 1998 đến nay, tức là từ khi ra đời Chỉ thị 30/CT – TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở cũng như những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay về vấn đề này và về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng, các phương pháp cụ thể khác như phương pháp: lịch sử cụ thể, phân tích, tổng hợp; kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác: thống kê, so sánh, điều tra xã hội học.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
– Tác giả phân tích đưa ra khái niệm chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã, những tiêu chí đánh giá chất lượng và những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã.
– Đánh giá toàn diện chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
– Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm thực sự đóng góp vào việc nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nói chung và ở cấp xã nói riêng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
– Luận văn góp phần hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
– Luận văn góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm chỉ đạo tổ chức triển khai hoạt động thực tiễn của các cơ quan Đảng và Nhà nước, nhằm nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương, 8 tiết.
Loại file : word số trang : 132 Phí dowload 200.000